Các khối u gan nhỏ khó phát hiện khi khám sức khỏe vì phần lớn gan được bao phủ bởi khung xương sườn bên phải. Vào thời điểm khối u có thể được sờ thấy, nó có thể đã khá lớn.
Tại thời điểm này, không có xét nghiệm sàng lọc ung thư gan nào được khuyến cáo rộng rãi ở những người có nguy cơ trung bình. Nhưng xét nghiệm có thể được khuyến nghị cho một số người có nguy cơ mắc bệnh cao hơn.
Vậy ung thư gan hay u gan ác tính có chữa được không? Câu trả lời là Có. U gan ác tính thường có thể điều trị được, nhưng nó có thể khó điều trị. U gan ác tính có thể bắt đầu ở gan (nguyên phát) hoặc lây lan từ một nơi khác (thứ phát). Phương pháp điều trị ung thư gan nguyên phát và thứ phát là tương tự nhau.
Cụ thể, phương pháp điều trị bạn có sẽ phụ thuộc vào:
- Kích thước và loại ung thư gan bạn mắc phải.
- Vị trí khối u.
- Khối u liệu đã lan rộng.
- Tình hình sức khỏe chung.
Điều trị u gan ác tính có thể bao gồm phẫu thuật, hóa trị, sử dụng nhiệt để tiêu diệt ung thư (đốt u bằng sóng cao tần), sử dụng thuốc nhắm đích và xạ trị…
Phẫu thuật
Theo NHS.uk, nếu u gan ác tính được phát hiện sớm, còn nhỏ và chưa lan rộng, bạn có thể phẫu thuật để loại bỏ nó. Phẫu thuật sẽ loại bỏ một phần hoặc toàn bộ gan của bạn. Nếu cắt toàn bộ gan, bạn sẽ cần ghép gan để thay thế gan của mình bằng gan được hiến tặng.
Quá trình hồi phục sau phẫu thuật điều trị ung thư gan có thể mất nhiều thời gian.
Hóa trị liệu
Hóa trị sử dụng thuốc để tiêu diệt tế bào ung thư. Đối với u gan ác tính, thuốc hóa trị thường được đưa vào các mạch máu cấp máu cho khối u, mục đích ngăn chặn ung thư phát triển.
Thông thường, bạn sẽ được hóa trị để thu nhỏ khối u hoặc để kiểm soát và cải thiện các triệu chứng. Điều này được thực hiện nếu bạn không thể phẫu thuật.
Phá hủy u tại chỗ
Đây là phương pháp hiện đại giúp phá hủy mô ung thư mà không cần phẫu thuật. Cơ chế chung là dùng nhiệt hoặc các chất gây chết tế bào ung thư: đốt u bằng sóng cao tần (RFA), vi sóng (MWA), tiêm cồn tuyệt đối qua da (PEI), áp lạnh (Cryotherapy).
Phương pháp này thường chỉ định cho các khối u nhỏ (< 3cm), thường được làm dưới hướng dẫn của các phương tiện chẩn đoán hình ảnh đặc biệt là siêu>
Điều trị nhắm trúng đích
Phương pháp này thường được chỉ định khi các phương pháp điều trị kể trên không còn chỉ định. Có nhiều loại thuốc điều trị đích hiện nay đã được sử dụng hoặc đang nghiên cứu phát triển.
Xạ trị
Hiện nay có một số loại hình xạ trị đang được nghiên cứu, áp dụng như: xạ trị dùng hạt vi cầu phóng xạ Yttrium - 90, xạ trị proton…
Các dấu hiệu và triệu chứng của u gan ác tính
Có một hoặc nhiều triệu chứng dưới đây không có nghĩa là bạn bị ung thư gan. Trên thực tế, nhiều triệu chứng trong số này có nhiều khả năng là do các bệnh lý khác gây ra. Tuy nhiên, nếu bạn có bất kỳ triệu chứng nào trong số những triệu chứng này, điều quan trọng là phải được bác sĩ kiểm tra để tìm ra nguyên nhân và điều trị nếu cần.
Các dấu hiệu và triệu chứng của u gan ác tính thường không biểu hiện cho đến giai đoạn sau của bệnh, nhưng đôi khi chúng có thể biểu hiện sớm hơn. Nếu bạn đến bác sĩ khi lần đầu tiên nhận thấy các triệu chứng, bệnh ung thư của bạn có thể được chẩn đoán sớm hơn, khi việc điều trị có khả năng hữu ích nhất.
Một số triệu chứng phổ biến nhất của u gan ác tính là:
- Giảm cân.
- Ăn mất ngon.
- Cảm thấy rất no sau một bữa ăn nhỏ.
- Buồn nôn hoặc nôn mửa.
- Gan to, có cảm giác đầy dưới xương sườn bên phải.
- Lá lách to ra, cảm thấy như đầy dưới xương sườn bên trái.
- Đau ở bụng hoặc gần xương bả vai bên phải.
- Sưng hoặc tích tụ chất lỏng trong bụng.
- Ngứa.
- Vàng da và mắt.
Các triệu chứng khác có thể bao gồm sốt, nổi các tĩnh mạch trên bụng có thể nhìn thấy qua da và xuất huyết hoặc bầm tím bất thường.
Những người bị viêm gan mãn tính hoặc xơ gan có thể cảm thấy tồi tệ hơn bình thường hoặc có thể chỉ có những thay đổi trong kết quả xét nghiệm trong phòng thí nghiệm, chẳng hạn như xét nghiệm chức năng gan hoặc nồng độ alpha-fetoprotein (AFP).
Một số khối u gan tạo ra các hormone hoạt động trên các cơ quan khác ngoài gan. Những hormone này có thể gây ra:
- Nồng độ canxi trong máu cao (tăng canxi huyết), có thể gây buồn nôn, lú lẫn, táo bón, suy nhược hoặc các vấn đề về cơ.
- Lượng đường trong máu thấp (hạ đường huyết), có thể gây mệt mỏi hoặc ngất xỉu.
- Phì đại tuyến vú (nữ hóa tuyến vú) và / hoặc co rút tinh hoàn ở nam giới.
- Số lượng tế bào hồng cầu cao có thể khiến ai đó trông đỏ mặt.
- Cholesterol cao.