Đó là giọt nước tràn ly cho các nhà nghiên cứu như tôi, những người đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về sức khỏe tâm thần tuổi teen trong nhiều năm và thường bị gạt đi. Trong các dữ liệu mà tôi phân tích cho cuốn sách sắp tới của mình, “Generations” (Thế Hệ), trầm cảm tuổi teen đã tăng gấp đôi trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2019 ngay trước cả khi đại dịch bắt đầu, và trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2021, số lượng các bé gái từ 10 tuổi đến 14 tuổi nhập viện cấp cứu do tự ngược đãi bản thân tăng gấp bốn lần.
Nhưng quan trọng hơn, đó là giọt nước tràn ly đối với các bé gái tuổi teen và các bậc cha mẹ của các em, những người đã phải chịu đựng trong nhiều năm nhưng không nhận thấy có nhiều sự thay đổi. Báo cáo này của CDC đã đưa một số vấn đề lên mức quan trọng mà các gia đình cần phải nhận ra. Tôi là mẹ của ba cô gái, hai trong số đó đang ở tuổi teen. Vì vậy, đối với chủ đề này, tôi có một nỗi lo lắng về mặt cá nhân cũng như với tư cách là một người hành nghề.
Đầu tiên, chúng ta cần lắng nghe các bé gái tuổi teen, những người có các nỗi lo lắng thường bị chúng ta gạt sang một bên. Đúng là tình trạng bắt nạt bằng lời nói và trên mạng xã hội, những lời xúc phạm, và những lo ngại về hình thể xảy ra phổ biến hơn với các bé gái, và càng phổ biến hơn nữa trong thời niên thiếu. Nhưng điều đó không làm cho những điều này ít hiện thực hơn hoặc ít đáng lo ngại hơn. Chúng ta thường dễ gạt bỏ nỗi buồn hoặc nước mắt ở một bé gái tuổi teen bằng [những lý do như] “hormone” hoặc “chuyện vặt của con gái,” nhưng những cảm xúc này đôi khi có thể dẫn đến những vấn đề nghiêm trọng hơn và điều này cần được nhìn nhận nghiêm túc. Ngay cả khi chúng chỉ là những thăng trầm “bình thường” của tuổi teen, thì các em vẫn bị tổn thương, và các em vẫn xứng đáng có được sự đồng cảm — chứ không phải sự chế giễu hay phủ nhận — của người lớn.
Trong một câu chuyện trên nhật báo Washington Post về báo cáo này của CDC, một bé gái tuổi teen rành rọt nói: “Cháu muốn người lớn tin tưởng những bé gái.” Lúc này đây, điều đó có nghĩa là chúng ta phải thừa nhận rằng các bé gái tuổi teen đang phải chịu đựng [rất nhiều vấn đề].
Thứ hai, chúng ta nên thừa nhận rằng truyền thông xã hội chắc chắn có liên quan đến lý do tại sao rất nhiều bé gái tuổi teen đang khổ sở. Sự phát triển của phương tiện truyền thông xã hội và các công nghệ khác trong những năm 2010 đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống của các thanh thiếu niên: Các em bắt đầu dành nhiều thời gian hơn trên mạng, dành ít thời gian để gặp gỡ bạn hữu cũng như ngủ nghỉ hơn. Trong những năm qua, tính từ năm 2012, các nền tảng truyền thông xã hội ngày càng trở nên hấp dẫn, các bé gái tranh nhau lượt thích và số người theo dõi trên Instagram và Snapchat và bị các thuật toán mạnh mẽ của TikTok dẫn dụ.
Các tuyên bố rằng các mối liên hệ giữa việc sử dụng [phương tiện] truyền thông xã hội và bệnh trầm cảm là “không đáng kể” sơ hở ở nhiều điểm. Với những người dùng nhiều có nguy cơ bị trầm cảm cao gấp đôi so với người dùng ít, việc miêu tả mối liên hệ đó là không đáng kể dường như khá kỳ quặc. Các mối liên hệ này cũng lớn như các yếu tố thuộc sự can thiệp của sức khỏe cộng đồng như hút thuốc, béo phì, và phơi nhiễm chì. Mặc dù không phải tất cả các trẻ em tuổi vị thành niên đều bị ảnh hưởng tiêu cực bởi phương tiện truyền thông xã hội, nhưng một số em chịu ảnh hưởng tiêu cực rất nặng nề.
Nếu 38% các bé gái ăn một loại kẹo mới ra mắt trên thị trường bị đau bụng, so với chỉ 11% những người ăn kẹo khác, thì loại kẹo mới này sẽ ngay lập tức bị rút khỏi thị trường mặc dù phần lớn khách hàng không gặp ảnh hưởng xấu. Tuy vậy, dù đã có những thống kê chính xác trong một trong những nghiên cứu được thiết kế tốt nhất về [mối liên hệ giữa] phương tiện truyền thông xã hội và chứng trầm cảm mà các bé gái mắc phải, nhưng các mạng xã hội vẫn cho phép trẻ em và các thanh thiếu niên sử dụng mà không cần phải xác thực độ tuổi.
Đối lập với niềm tin phổ biến, các bé gái tuổi teen không phủ nhận rằng phương tiện truyền thông xã hội có góp phần khiến các em khổ sở. Theo nghiên cứu nội bộ bị rò rỉ vào năm 2021 của Công ty Meta trên Instagram, thanh thiếu niên thường xuyên đổ lỗi cho các áp lực từ phương tiện truyền thông xã hội vì đã gây ra tỷ lệ trầm cảm cao cho thế hệ của các em (một báo cáo nội bộ lưu ý rằng: “phản ứng này không chịu tác động từ bên ngoài và có tính nhất quán trên tất cả các nhóm.”) Vậy tại sao các bé gái không từ bỏ phương tiện truyền thông xã hội? Một phần vì các thuật toán của các trang web này được thiết kế để giữ người dùng trên ứng dụng càng lâu càng tốt, và thậm chí các thanh thiếu niên còn khó dừng lại hơn bởi các em đang ở giai đoạn phát triển. Nhiều trẻ vị thành niên cũng nói với tôi rằng, các em không biết làm thế nào để dừng lại. Tất cả những người bạn của các em đều sử dụng phương tiện truyền thông xã hội và các em sẽ cảm thấy lạc lõng nếu không sử dụng, mặc dù nội dung tiêu cực đang làm hại các em.
Cuối cùng, xét đến ảnh hưởng trên bình diện rộng này, chúng ta cần có các giải pháp ở cấp độ rộng [tương ứng]. Ngày càng có nhiều sự ủng hộ từ lưỡng đảng trong việc nâng độ tuổi tối thiểu để sử dụng phương tiện truyền thông xã hội lên 16 (hiện tại là 13). Điều đó ít nhất sẽ loại bỏ phương tiện truyền thông xã hội ra khỏi các trường trung học cơ sở, đây là một giai đoạn phát triển khó khăn [của các thanh thiếu niên]. Độ tuổi tối thiểu cũng sẽ cần phải được thực thi, hoặc là thông qua việc những người dùng gửi một ảnh căn cước của họ hoặc thông qua việc xác thực bởi trang web của bên thứ ba. Chúng ta đã không để các khâu thực hiện việc xác thực tuổi ngăn trở chúng ta thực thi giới hạn độ tuổi đối với [uống] rượu, [hút] thuốc lá, hoặc lái xe, và chúng ta không nên để điều đó ngăn cản chúng ta tại vấn đề này.
Cho đến khi điều đó diễn ra, việc giữ trẻ em và thanh thiếu niên tránh xa khỏi phương tiện truyền thông xã hội là nhiệm vụ của các bậc cha mẹ chúng ta — và việc này không hề dễ dàng. Các nền tảng truyền thông xã hội không yêu cầu sự cho phép của cha mẹ để mở một tài khoản, và họ không xác thực độ tuổi. Nhưng đây là những gì mà các bậc cha mẹ có thể làm trong lúc này.
Bạn hãy cân nhắc đặt quyền kiểm soát của cha mẹ trên thiết bị của con bạn, chẳng hạn như Bark hoặc Google Family Link, để các con bạn không thể tải xuống các ứng dụng mới mà không có sự cho phép của bạn, hoặc đặt giới hạn thời gian nghiêm ngặt đối với việc sử dụng các ứng dụng truyền thông xã hội (điều này có thể không ngăn chúng tiếp xúc với nội dung độc hại, nhưng ít nhất điều đó có nghĩa là chúng tiếp xúc ít hơn và có thể dành thời gian hạn hẹp của chúng cho các hoạt động có lợi hơn).
Đặc biệt đối với trẻ em và thanh thiếu niên, một giải pháp trực chỉ hơn là một chiếc điện thoại chỉ có những tính năng căn bản, không truy cập được Internet hoặc không thể tải xuống các ứng dụng truyền thông xã hội. Năm ngoái, khi vợ chồng tôi muốn mua một chiếc điện thoại cho cô con gái năm nay 13 tuổi của chúng tôi, chúng tôi đã tặng cô bé một chiếc điện thoại Gabb có giảm giá đặc biệt. Cô bé có thể gọi và nhắn tin cho các bạn, chụp ảnh, và liên lạc với chúng tôi nếu xe buýt bị trễ mà không cần chúng tôi lo lắng rằng con chúng tôi tìm thấy một cách lên [các trang] truyền thông xã hội mà không được chúng tôi đồng ý. Thiết bị đó cũng trông rất giống với một chiếc điện thoại Android bình thường, vì vậy nó không nổi bật.
Giống như nhiều bậc cha mẹ khác, tôi thất vọng về việc chúng ta phải giải quyết việc này một cách đơn lẻ, trong khi rất nhiều gia đình đang tìm kiếm các giải pháp chung cho cùng một vấn đề. Thế nhưng cho đến khi các quy định pháp luật thay đổi, thì đó là thực trạng chúng ta đang mắc phải nếu muốn giúp đỡ con cái ở độ tuổi teen của mình — và rõ ràng là các con đang rất cần được giúp đỡ.