Giảng Võ trường là một công trình quân sự qui mô lớn được coi là Trường võ bị quốc gia thời Lê, kéo dài hơn 3 thế kỷ (từ TK 15 đến TK 18). Trong ảnh là An Nam hình thắng đồ và vị trí trường Giảng Võ.
Bộ sưu tập vũ khí trường Giảng Võ có niên đại từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18 đã được công nhận là bảo vật quốc gia, đang được trưng bày tại Bảo tàng Hà Nội. Đây là những vũ khí được chế tạo từ sắt, rèn thủ công.
Qua nghi trượng (còn gọi là kích mỏ cú) của đội lính vệ binh vác khi rước vua ra trường Giảng Võ duyệt quân sĩ luyện tập.
Câu liêm là loại vũ khí được ưa chuộng và trang bị phổ biến trong quân đội thời Lý - Trần - Lê. Khả năng sát thương của câu liêm hơn hẳn các loại vũ khí có cán khác vì có thể đâm, móc, bổ. Dân gian còn gọi là móc đáp hay bồi đòn.
Lao 2 ngạnh có phần đầu giống mũi tên, phần chuôi là họng tra cán dài. Lao được ném đi để đánh địch ở cự li xa. Khi trúng mục tiêu, mũi lao sẽ mắc lại ở bên trong.
Giáo một ngạnh dài 25-35cm, có chuôi tra, cán. Ngạnh giáo có tác dụng sát thương, nhanh chóng hạ gục đối phương.
Mũi tên có kích thước 6,5-,85cm. Cung, nỏ là vũ khí đánh xa truyền thống phổ biến trong bộ vũ khí của dân tộc ta. Thời kỳ phong kiến có các đội bắn cung nỏ riêng.
Mũi giáo hình ngòi bút, dài 16cm. Được đúc nổi sống ở giữa, mỏng dần ra hai phía tạo thành hai lưỡi sắc ở hai bên.
Kiếm dài (trường kiếm) và kiếm ngắn (đoản kiếm). Ở trường Giảng Võ, kiếm là khí tài để luyện tập và thi cử, là vũ khí để khảo sát, xếp hạng quân sĩ.
Móc câu chùm dùng để quăng, móc đối phương, giật mạnh cho ngã, kéo lê trên mặt đất. Móc câu chùm cũng được trang bị cho thủy quân.
"Chông củ ấu" để rải trên mặt đất, đặc điểm là bất cứ chiều nào cũng có một mũi hướng lên trời.
Chông cắm hình cánh én.
Súng lệnh đúc bằng đồng, dài 35-45cm. Súng dùng để bắn pháo hiệu chỉ huy tiến hay lùi theo màu sắc pháo hiệu cháy phát ra.
Đạn đá có đường kính 4-8cm dùng cho súng thần công. Đạn được phát hiện nhiều ở vùng Ngọc Khánh vốn là một phần của thao trường Giảng Võ xưa. Trong dân gian còn lưu lại các địa danh như Bãi đạn, Trường bắn.