Vua Trần Duệ Tông (1336 – 1377), tên thật là Trần Kính, là con thứ 11 của vua Trần Minh Tông. Lên ngôi năm 37 tuổi, dù chỉ ở ngôi 4 năm nhưng thời gian trị vì ông đã để lại nhiều ấn tượng về tài năng, sự liêm khiết của đa số quan lại.
Duệ Tông còn là vị vua hiếm có của hậu kỳ nhà Trần có lòng quả cảm, ý thức tự lập tự cường, coi trọng thuần phong, chấn hưng Đại Việt.
Tham lễ vật, hại nhà vua
Sau khi lên ngôi vua, Trần Duệ Tông chủ trương chọn người thực tài phục vụ quốc gia, không đề cao yếu tố tôn thất.
Những nho sĩ thời đó như Trạng nguyên Đào Sư Tích, Bảng nhãn Lê Hiến Phủ, Thám hoa Trần Đình Thám… đều xuất thân từ bình dân và rất được coi trọng.
Để đối phó với sự quấy rối từ quốc gia lân bang, quân đội dưới thời vua Trần Duệ Tông được tổ chức chặt chẽ. Đặc biệt, ý thức dân tộc ở thời kỳ này rất được chú trọng. Vua hạ lệnh cho quân dân không được mặc áo kiểu người phương Bắc và bắt chước tiếng nói của các nước Chiêm – Lào.
Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, sau cái chết của Duệ Tông, Thái thượng hoàng Nghệ Tông (anh Duệ Tông) mơ thấy “vua em” đem quân về đọc bài thơ tiên báo sự diệt vong của nhà Trần.
“Ở giữa chỉ có loài mỏ đỏ/Lăm le lấn lên lầu gà trắng/Khẩu vương đã định việc hưng vong/Không ở trước mà ở về sau”.
Nghệ Tông sau đó tự mình giải nghĩa, biết được ý nghĩa. Sau khi Nghệ Tông qua đời 6 năm, nhà Trần diệt vong.
Bên cạnh đó, ông còn quy định cụ thể về mẫu mã các loại thuyền, xe, kiệu, tán, nghi, trượng và y phục…
Trên cương vị người lãnh đạo tối cao của dân tộc Đại Việt, vua Trần Duệ Tông luôn chứng tỏ mình là một con người có cá tính và đầy quyết đoán. Tuy nhiên, chính sự chứng tỏ không đúng nơi đúng chốn đã khiến vị vua thứ 9 của nhà Trần phải tử trận nơi sa trường.
Trước và sau khi Trần Duệ Tông lên ngôi, Đại Việt thường hay bị Chiêm Thành xâm lấn. Duệ Tông xác định và ra sức xây dựng quân đội hòng dùng binh lực áp chế Chiêm Thành theo cách triệt để. Không ngờ đó lại là mầm họa không chỉ với bản thân ông, mà còn khiến triều đại nhà Trần suy yếu và tiến gần đến bờ diệt vong.
Năm 1376, chúa Chiêm là Chế Bồng Nga mang quân xâm lấn, đánh vào vùng Hoá Châu (Nghệ An). Duệ Tông sai Đỗ Tử Bình đi đánh, Chế Bồng Nga sợ hãi, xin dâng 10 mâm vàng tạ tội. Nhận vàng, Đỗ Tử Bình liền giấu vua Trần mà lấy làm của riêng, lại còn bịa đặt tâu vua rằng Chế Bồng Nga vô lễ, cần phải đem quân đi hỏi tội. Duệ Tông tưởng thật, giận lắm, cất quân đi đánh Chiêm Thành ngay.
Tháng 1 năm Đinh Tỵ (1377), vua Trần Duệ Tông thân cất quân Đại Việt đi đánh Chiêm Thành. Sau khi đánh dẹp nhiều đồn lũy của đối phương, quân Trần vây thành Đồ Bàn - kinh đô vua Chiêm. Thấy khó chống, quân Chiêm bèn lập mưu cho người trá hàng nói Chế Bồng Nga đã bỏ trốn và chấp nhận mất thành.
Vua Duệ Tông trúng kế, ra lệnh tiến quân vào thành. Khi quân Đại Việt đến chân thành thì quân Chiêm từ 4 phía đổ ra đánh. Đại quân của vua Duệ Tông vỡ trận đại bại, bản thân vua chết trong đám loạn quân.
Quyết đoán hóa ương gàn
Về trận đánh này, sách “Đại Việt sử kí toàn thư” chép như sau: “Mùa xuân, tháng Giêng, ngày 23, đại quân tiến đến cửa Thị Nại (Quy Nhơn, Bình Định ngày nay) của Chiêm Thành, sau lên đến Thạch Kiều, đóng lại ở động Ỷ Mang (nay chưa rõ là đâu).
Chế Bồng Nga cho dựng trại phía ngoài thành Đồ Bàn (cũng tức Chà Bàn, nay thuộc Bình Định), sai viên quan nhỏ là Mục Bà Ma đến trá hàng, nói dối là Bồng Nga đã chạy trốn, nay thành trống không, vậy nên tiến quân gấp, chớ bỏ lỡ cơ may.
Ngày 24, vua mặc áo đen, cưỡi ngựa đen pha sắc trắng, sai Ngự Câu Vương Húc mặc áo trắng, cưỡi ngựa trắng, kíp truyền lệnh tiến quân. Đại tướng Đỗ Lễ thấy vậy can rằng: Nó hàng là bởi trước muốn bảo toàn đất nước.
Quan quân đi vào sâu để đánh phá thành là việc bất đắc dĩ, vậy xin hãy sai một biện sĩ mang thư đến hỏi tội, cốt xem hư thực ra sao, ấy cũng như kế của Hàn Tín phá nước Yên thuở xưa, không phải khó nhọc mà vẫn thành công vậy. Cổ nhân nói lòng giặc khó lường, thần xin bệ hạ hãy xét kĩ lại.
Vua nói: Ta mặc giáp cứng, tay mang gươm sắc, dãi gió dầm mưa, lội sông trèo núi để vào sâu trong đất giặc, không ai dám đương đầu, thế là cơ trời giúp ta đó. Huống chi, nay chúa giặc nghe tin đã chạy trốn, không còn lòng dạ kháng cự.
Cổ nhân nói, dùng binh cốt ở thần tốc, nay nếu dừng lại không tiến, thì đúng là trời cho mà không lấy, giặc lập cơ mưu khác thì hối sao kịp. Ngươi chính là hạng đàn bà.
Nói rồi lấy áo đàn bà cho Lễ mặc. Quân lính bèn nối gót nhau mà đi như xâu cá, cánh trước cánh sau cách biệt, giặc thừa cơ xông ra đánh chặn. Giờ Tỵ, quan quân tan vỡ. Vua bị hãm trong trận mà chết, bọn Đại tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hòa, Hành khiển Phạm Huyền Linh đều chết cả”.
Trận này, Đỗ Tử Bình chỉ huy hậu quân, không chịu đến cứu nên thoát được, còn Hồ Quý Ly thì lo việc quân lương ở phía sau, nghe tin vua chết cũng lập tức chạy về. Cái chết giữa thành Đồ Bàn khiến vua Trần Duệ Tông trở thành vị vua duy nhất trong lịch sử Việt Nam hi sinh chết trên chiến trường.
Tuy nhiên, Trần Duệ Tông được đánh giá là vị vua có cá tính mạnh mẽ, mang hoài bão chấn hưng quốc gia. Nếu ông không chủ quan mà sớm bỏ mạng, Đại Việt ít ra có thể giảm thiểu được họa Chiêm Thành trong những năm tiếp theo. Và chừng nào còn ông, Quý Ly khó trở thành quyền thần mà thao túng triều đình. Cái chết của Duệ Tông được xem là mất mát cho Đại Việt và cho nhà Trần.
Các nhà sử học sau này đã có nhiều phán xét trái ngược nhau. Có ý kiến cho rằng, ông đáng chê trách vì sự hiếu thắng và chủ quan khinh địch dẫn đến hậu quả thảm khốc cho quân đội Đại Việt. Nhưng cũng có người khẳng định Duệ Tông phải được kính trọng vì bản lĩnh, khí phách và cái chết cho lý tưởng chấn hưng dân tộc.
Có một điều không thể phủ nhận, cái chết của vua Duệ Tông là một bước ngoặt lịch sử lớn đối với nhà Trần, và thậm chí là cả tiến trình lịch sử của dân tộc.
Sau cái chết của ông, những người kế vị đều tỏ ra nhu nhược, triều đình ngày càng hỗn loạn. Vua anh Nghệ Tông vốn hoàn toàn dựa vào ông, nay phải dựa vào Lê Quý Ly (Hồ Quý Ly), kẻ quyền thần nắm quyền thao túng triều chính và sau này đã làm sụp đổ hoàn toàn cơ nghiệp nhà Trần.
Không còn một người cứng rắn như Trần Duệ Tông, quân Chiêm Thành được thể ngày càng lấn tới, trở thành một mối họa cho Đại Việt.
Vua Trần Nghệ Tông tỏ ra bất lực hoàn toàn, sau này hễ vua Chế Bồng Nga tiến đánh lên phía Bắc là chỉ biết cùng Lê Quý Ly bỏ thành tháo chạy.
Trời sinh ra một người để phá hoại
Trong trận chiến thành Đồ Bàn, ngoài vua Trần Duệ Tông tử trận, các đại tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hào, hành khiển Phạm Huyền Linh cũng không qua khỏi. Đỗ Tử Bình sau đó bị thượng hoàng Trần Nghệ Tông bắt, bỏ trong xe tù đi rao khắp phố. Khi Tử Bình về qua phủ Thiên Trường, người dân đua nhau chửi mắng, lấy gạch ngói ném vào xe tù.
Thượng hoàng xuống chiếu trị tội nhưng miễn tử hình, bắt đi làm lính. Tuy nhiên, không lâu sau, Tử Bình lại được phục chức.
Tháng 5/1378, Chế Bồng Nga đưa hàng vương Trần Húc về nước, đánh cướp ở vùng Nghệ An, Trần Nghệ Tông lại phục chức cho Đỗ Tử Bình, sai ra chống giữ.
Cũng như lần trước, Đỗ Tử Bình đánh không lại khiến quân đội của Chế Bồng Nga tiến vào Thăng Long lần thứ ba, bắt người cướp của rồi rút về.
Năm 1380, vua Chiêm lại dụ dân Tân Bình và Thuận Hóa đi cướp phá Nghệ An và tiến lên Thanh Hóa. Thượng hoàng Nghệ Tông sai Hồ Quý Ly lĩnh quân thủy và Đỗ Tử Bình dẫn quân bộ ra chống. Tới tháng 5, quân Chiêm không đánh được phải rút lui. Sau trận đánh này, Đỗ Tử Bình cáo ốm, xin rút lui không giữ binh quyền nữa.
Tháng 11 năm đó, Trần Nghệ Tông phong Tử Bình làm Nhập nội hành khiển tả tham tri chính sự, lĩnh chức Kinh lược sứ Lạng Giang. Nhậm chức được vài năm thì Đỗ Tử Bình qua đời.
Viết về Đỗ Tử Bình, sử thần Ngô Thì Sĩ nhận định: “Nước đến khi sắp mất, tất nhiên trời sinh ra một người để phá hoại. Việc Tử Bình được tiến cử, là lúc mối hấn khích ở biên giới Nhật Nam đã chớm nảy nở, cái nguy cơ tai họa của Duệ Tông đã ngấm ngầm phục sẵn, mà từ đó, dần dần gây ra mối suy sụp cho cơ nghiệp nhà Trần”.