Ngày 3/3, tại TP Cần Thơ, Tổ chức Quốc tế về bảo tồn thiên nhiên (WWF) phối hợp Tổng cục Phòng, Chống Thiên tai (TCPCTT) thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) tổ chức Hội thảo Khởi động gói tư vấn xây dựng ngân hàng cát và kế hoạch duy trì ổn định hình thái sông khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL).
Thực trạng khai thác cát sông ở ĐBSCL thế nào?
Khu vực ĐBSCL ở phần cuối của con sông Mekong, chủ yếu cát sông được khai thác. Hiện nay có khoảng 82 công ty được cấp phép khai thác 28 triệu tấn cát sông mỗi năm. Tuy nhiên, khối lượng cát được báo cáo và lượng cát khai thác thực tế rất khó để kiểm soát, tình trạng khai thác cát trái phép vẫn diễn ra thường xuyên.
Ngân hàng cát của ĐBSCL bị thâm hụt khoảng 25 triệu tấn. Con số này được dự đoán sẽ còn tăng trong các năm tới.
Việc khai thác cát trong 20 năm qua với số lượng ngày càng tăng dẫn đến hậu quả nghiêm trọng là làm xói mòn các nhánh sông, sạt lở bờ gia tăng (khoảng 500 ha/năm) đã làm vùng đồng bằng này thay đổi hình dạng.
Tại hội thảo, ông Lê Minh Chương - đại diện Bộ NN&PTNT - cho biết, hiện tại toàn khu vực ĐBSCL có đến 621 điểm sạt lở với tổng chiều dài sạt lở khoảng 610 km, trong đó có 147 điểm sạt lở đặc biệt nguy hiểm, dài 127 km; nguy hiểm 137 điểm, dài 193 km.
Theo ông Chương, nguyên nhân chính gây nên sạt lở sông và kênh là do dòng chảy đồng bằng, địa chất ven biển mềm yếu, hồ chứa thượng lưu, khai thác cát, xây dựng hạ tầng ven sông và ảnh hưởng của giao thông thủy phát triển.
Hiện nay, cát sông vẫn được phân loại là vật liệu xây dựng thông thường trong Luật Khoáng sản năm 2010 nên việc khai thác cát trên địa bàn do UBND tỉnh phê duyệt quy hoạch thăm dò, sử dụng và khai thác cát lòng sông. Sở Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) được phân công là đơn vị quản lý và cấp phép khai thác cát sông. Chỉ những mỏ cát liên quan đến hai tỉnh thì Bộ TN&MT cấp phép.
Tuy nhiên, ở không ít địa phương vẫn diễn ra tình trạng khai thác cát trái phép do nhu cầu về cát xây dựng và cát san lấp của người dân, doanh nghiệp ngày càng lớn, trong khi việc cấp phép khai thác cát bị hạn chế. Các đối tượng khai thác, vận chuyển cát, sỏi trên sông sử dụng nhiều thủ đoạn để qua mặt cơ quan chức năng (khai thác vào ban đêm, gần sáng, tổ chức cảnh giới, thông báo cho nhau khi có cơ quan chức năng kiểm tra) gây khó khăn cho công tác kiểm tra, quản lý.
Chính phủ đã có động thái hạn chế và xác định hạn ngạch khai thác, tuy nhiên việc xác định chi tiết trữ lượng khai thác cát bền vững chưa có cơ sở tin cậy do thiếu dữ liệu khoa học về định lượng cát.
Khai thác cát bừa bãi sẽ gây ra hậu quả lớn
Theo các diễn giả, khai thác cát sông không bền vững sẽ gây ra hậu quả lớn cho khu vực ĐBSCL và ảnh hưởng đến sinh kế cho người dân. Vì thực tế, năng suất sản xuất nông nghiệp và các dịch vụ sinh thái của vùng đồng bằng này phụ thuộc nhiều vào sự lắng đọng trầm tích. Không có dòng trầm tích (cát, bùn, sét) từ thượng nguồn và các phụ lưu của sông Mekong thì đất phù sa của đồng bằng - đã được bồi lắng qua hàng ngàn năm - sẽ biến mất vào biển. Từ năm 1994 đến 2014, lượng trầm tích đến đồng bằng đã giảm 50%.
Nếu không có những hành động phối hợp hiệu quả thì tình trạng sạt lở các bờ sông Cửu Long và vùng duyên hải sẽ ngày càng trầm trọng, khiến hơn hàng chục ngàn hộ gia đình sống ven sông Tiền và sông Hậu đứng trước nguy cơ mất nhà.
Khai thác cát không bền vững cũng làm suy giảm sự đa dạng, phong phú của các loài cá và thay đổi thảm thực vật ven sông.
Biến đổi khí hậu càng làm trầm trọng hơn những ảnh hưởng của khai thác cát không bền vững ở đây, làm gia tăng rủi ro xâm nhập mặn, triều cường, kéo theo mực nước biển dâng cao ở mức chưa từng có trước đây. Những áp lực môi trường này có thể phá hủy khả năng chống chịu, đe dọa nền nông nghiệp, kinh tế và đa dạng sinh học của vùng đồng bằng này.
Đứng trước những nguy cơ đó, nhiều chuyên gia tại hội thảo cho rằng cần cấp thiết xây dựng ngân hàng cát cho khu vực ĐBSCL. Để có cơ sở cho việc xây dựng ngân hàng cát ở ĐBSCL thì công tác nghiên cứu quan trọng nhất là xây dựng ngân hàng cát cho ĐBSCL và kế hoạch duy trì ổn định hình thái sông khu vực ĐBSCL, đây được xem là những nghiên cứu đầu tiên về đề tài này ở quy mô 13 tỉnh đồng bằng.
Bên cạnh hai nghiên cứu chính nêu trên, dự án cũng thực hiện các nghiên cứu khác về tình hình khai thác, sử dụng cát ở ĐBSCL và các vùng lân cận, và sử dụng các kết quả đầu ra làm cơ sở để thúc đẩy các chủ thể chính trong ngành xây dựng Việt Nam tìm kiếm các nguồn cung ứng bền vững để thay thế cát sông.