Tại tòa, có người bị hại xin HĐXX giảm án cho các bị cáo, có người chỉ mong sớm được nhận lại số tiền đã bỏ ra mua trái phiếu Tân Hoàng Minh, cũng có người muốn được nhận lại tiền mua trái phiếu và cả tiền lãi, lãi chậm trả, tiền bồi thường thiệt hại.
Điều đặc biệt, rất nhiều nhà đầu tư đưa ra yêu cầu được bồi thường ngay tại tòa.
Có người bị hại cho rằng, hợp đồng mua trái phiếu giữa nhà đầu tư và Tân Hoàng Minh là hợp đồng dân sự. Hai bên đã và đang thực hiện đúng hợp đồng và nội dung hợp đồng đúng pháp luật quy định.
Thậm chí, mọi người khi ký hợp đồng đều biết rõ có ngân hàng và Công ty Chứng khoán Bảo Việt ký xác nhận; Công ty Chứng khoán Bảo Việt còn cung cấp thêm xác nhận nắm giữ trái phiếu đối với nhà đầu tư chuyên nghiệp…
Khi Ủy ban Chứng khoán Nhà nước ban hành Quyết định 181 hủy trái phiếu Tân Hoàng Minh vào ngày 3/4/2022, trong nội dung quyết định này không nhắc đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia mua trái phiếu Tân Hoàng Minh.
Theo người bị hại, như vậy là chưa đúng quy phạm ban hành quyết định hành chính của cơ quan nhà nước, làm thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư. Hơn nữa trách nhiệm của cơ quan này chưa được nhắc tới trong phiên tòa.
Quan điểm của đại diện VKS cho rằng, vì đây là vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9 gói trái phiếu đã bị hủy nên hợp đồng mua trái phiếu Tân Hoàng Minh là vô hiệu.
Theo dõi vụ án, Tiến sỹ Đặng Văn Cường, giảng viên luật hình sự, Trường Đại học Thủy Lợi cho rằng, quá trình tố tụng, nếu bị cáo hoặc người thân thích của bị cáo tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả cho người bị hại thì người bị hại được nhận tài sản ngay trong quá trình tố tụng.
Trường hợp bị cáo không bồi thường trực tiếp cho người bị hại mà lại nộp vào tài khoản tạm giữ của cơ quan tố tụng thì phải chờ đến khi bản án có hiệu lực pháp luật. Lúc này, cơ quan thi hành án mới có quyền căn cứ vào nội dung của bản án để thi hành đối với phần dân sự trong bản án hình sự theo quy định của Luật Thi hành án dân sự.
Hơn nữa, theo quy định của pháp luật, chỉ khi nào xác định được bị cáo phạm tội bằng bản án có hiệu lực pháp luật, xác định bị cáo có gây thiệt hại cho người bị hại, xác định rõ phần trách nhiệm của từng bị cáo và xác định mức thiệt hại của từng người bị hại, khi đó mới có căn cứ để thi hành bản án, buộc người phạm tội phải bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho các nạn nhân.
Theo Tiến sỹ Đặng Văn Cường, chỉ những quan hệ dân sự hợp pháp thì quyền và nghĩa vụ của các bên mới được thực hiện theo nội dung đã thỏa thuận trước đó.
Nếu thông qua hợp đồng vay tài sản hoặc hợp đồng đầu tư để một bên gian dối chiếm đoạt tài sản của bên kia thì bị cáo (người chiếm đoạt tài sản) phải chịu hình phạt và phải trả lại số tiền đã chiếm đoạt.
Ngoài số tiền đã chiếm đoạt, nếu người bị hại có căn cứ chứng minh còn có những thiệt hại khác phát sinh thì phải xuất trình chứng cứ để tòa án xem xét.
Nếu người bị hại bị lừa do bị cáo đưa ra lãi suất cao để vay tiền, đưa ra lợi nhuận không tưởng để đầu tư thì đây là thủ đoạn gian dối, không phải là căn cứ để yêu cầu thanh toán số tiền "bánh vẽ" này, bởi những thông tin này là phương thức thủ đoạn phạm tội chứ không phải là thỏa thuận dân sự hợp pháp.
"Bồi thường thiệt hại bao nhiêu, bồi thường cho ai, trách nhiệm của từng bị cáo thế nào thì phải chờ phán quyết của HĐXX", luật sư Đặng Văn Cường cho hay.