Sử Việt từng chứng kiến nhiều phụ nữ cầm quân ra trận, tuy nhiên với thân phận hoàng hậu thì có lẽ chỉ duy nhất bà Phạm Thị Uyển.
Theo sách Những Phi - Hậu nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam và thần tích ở đình làng Hòa Mục ở Cầu Giấy, Hà Nội (nơi bà được phong thành hoàng làng), Phạm Thị Uyển quê ở quận Nam Xương (nay là Cầu Giấy). Cha bà là ông Phạm Huyên, mẹ là Phùng Thị Thảo (em gái của Phùng Hạp Khanh - bố của Phùng Hưng).
Vợ chồng ông Phạm Huyên muộn đường con cái nên thường đến chùa cầu tự. Sau đó, người vợ sinh ba con gồm một gái hai trai - Phạm Thị Uyển là chị cả, tiếp đến là 2 em Phạm Miện và Phạm Huy. Hai người em sau này đều là các danh tướng trong cuộc khởi nghĩa Phùng Hưng.
Bấy giờ, đất nước ta đang bị nhà Đường đô hộ. Căm phẫn trước chính sách bóc lột tàn bạo của kẻ thù, năm 713, Mai Thúc Loan dựng cờ khởi nghĩa ở Nam Đàn (Nghệ An), sau đó lên ngôi vua, lấy hiệu là Mai Hắc Đế.
Tương truyền, vì mến phục tài năng của Mai Thúc Loan, Phùng Hạp Khanh gả cháu gái Phạm Thị Uyển cho ông.
Sau khi về nhà chồng, Phạm Thị Uyển cùng Mai Hắc Đế chung vai gánh vác sự nghiệp. Vốn là người có chí khí, văn võ song toàn, am hiểu binh thư, sách lược đánh trận, bà thường bàn luận việc cơ mật với chồng. Dưới sự lãnh đạo của Mai Hắc Đế, đất nước giữ được nền độc lập trong 10 năm.
Tuy quân Đường thua trận nhưng không chịu bỏ mộng xâm lăng. Nhà Đường sai Dương Tư Húc và Quang Sớ Khách mang 10 vạn quân sang đàn áp. Thế giặc mạnh làm cho đội quân gồm những nông dân khởi nghĩa phải lui dần. Qua nhiều trận đánh, vì yếu thế, Mai Hắc Đế rút hết quân về Hoan Châu. Hoàng hậu Phạm Thị Uyển tình nguyện ở lại chặn giặc.
Là người giỏi thủy chiến, hoàng hậu đem binh thuyền bày trận trên sông Tô Lịch. Chiến đấu dũng cảm nhưng do chênh lệch lực lượng nên quân ta tan vỡ. Thế cùng lực kiệt nhưng quyết không để rơi vào tay giặc, Phạm Thị Uyển cùng số ít binh tướng còn lại nhảy xuống sông Tô Lịch tự vẫn vào ngày 15/7/722.
Theo ghi chép, xác hoàng hậu trôi dạt đến địa phận trang Nhân Mục (nay là làng Hòa Mục, Cầu Giấy, Hà Nội) được người dân vớt lên chôn cất, rồi lập đền thờ phụng. Ngôi đền sau này được đặt tên là đền Dục Anh.
Hàng năm vào ngày 15/7 âm lịch, dân làng lại tổ chức lễ hội tưởng nhớ mẫu nghi thiên hạ - nữ tướng anh dũng hi sinh ngay giữa trận tiền để bảo vệ đất nước.