Tấm bản đồ cổ có tên Hoàng trực tỉnh địa dư toàn đồ được TS. Mai Hồng, nguyên Trưởng phòng Tư liệu thư viện - Viện Hán Nôm, hiện là Giám đốc trung tâm nghiên cứu và ứng dụng phả học Việt Nam, đặc biệt cẩn trọng lưu giữ trong mấy chục năm qua, đã một lần nữa là cơ sở giúp các học giả dẫn dụng trong các nghiên cứu chủ quyền hai quần đảo Trường Sa và Trường Sa thuộc về Việt Nam.
Tấm bản đồ cổ có tên Hoàng trực tỉnh địa toàn dư toàn đồ chứng minh Hoàng Sa và Trường Sa không phải của Trung Quốc
Theo sự chỉ dẫn của TS. Mai Hồng và quan sát của phóng viên, tấm bản đồ được in màu, ranh giới địa phận giữa các vùng miền được phân định rạch ròi, ghi chú chi tiết, cụ thể. Chất liệu của tấm bản đồ được làm từ vải, gồm 35 miếng ghép bằng giấy dán lên tấm vải, mỗi miếng có kích cỡ khoảng 20x30cm. Hơn nữa, phía trên của tấm bản đồ có khoảng 600 chữ Trung Quốc cổ nói một cách rõ ràng xuất xứ, niên hiệu, cũng như thời gian thực hiện tấm bản đồ này.
Theo đó, tấm bản đồ này được chính thức xuất bản năm 1904. Trước đó, Trung Quốc cũng đã từng diễn ra việc khảo địa dư đồ, nhưng chưa được chính xác và không có tỷ lệ chuẩn. Dưới sự chỉ đạo của triều đình nhà Thanh khi đó, tấm bản đồ Hoàng trực tỉnh địa dư toàn đồ chính thức hoàn thành.
TS. Mai Hồng, nguyên Trưởng phòng Tư liệu thư viện - Viện Hán Nôm, hiện đang là Giám đốc trung tâm nghiên cứu và ứng dụng phả học Việt Nam đang chỉ cho phóng viên thấy ranh giới địa phận của Trung Quốc trong các lát cắt chụp từ bản đồ
Xin được trích một đoạn trong lời dẫn đầu của tấm bản đồ để thấy rằng, đây là một công trình vô cùng to lớn và mang tính chính xác cao: “Duy về cương vực của các thôn ấp, quận huyện ở các tỉnh đã có thay đổi đôi chút, cho nên xem chỗ nào thiếu thì bổ sung, chỗ nào nhầm lẫn thì đính chính sửa sang, làm bớt sai suyễn và làm sáng sủa hơn lên để khi nhìn vào đó thấy rõ ràng như nhìn vào lòng bàn tay, tại các cửa biển ở các miền duyên hải đều phỏng họa các đường thủy tàu thuyền ra khơi vào cảng…”, (TS. Mai Hồng dịch).
Cũng theo lời dẫn này, tấm bản đồ ra đời có công rất lớn của các giáo sĩ, họ là những người trực tiếp đi đo đạc, ghi chép và vẽ nên tấm bản đồ. Trong số đó, có ba vị giáo sĩ có nhiều đóng góp lớn đó là Lợi Mã Đậu (tên tiếng anh là Matteo Bicci), Thanh Nhược Vọng (Joannes Adam Schall Von Bell), Nam Hoài Nhân (Ferdinandus Verbiest), họ đã được ghi danh vào cuốn từ điển Từ Nguyên của Trung Quốc. Điều đó cho thấy, đây là những con người có thật, làm những việc có thật. Họ đã vẽ nên những điều tai nghe mắt thấy và không có gì có thể đổi trắng thay đen được.
Cụ thể trên “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” chỉ vẽ đến đảo Hải Nam. Đảo Hải Nam trên bản đồ là điểm cực Nam lãnh thổ Trung Quốc và bản đồ tỉnh Quảng Đông, chứng minh các quần đảo ở Biển Đông nằm ngoài lãnh thổ Trung Quốc.
Không chỉ có người Việt khẳng định “rành rành đã định ở sách trời” mà cả người Trung Quốc cũng phải công nhận điều đó trên giấy tờ. Tấm bản đồ này khiến cho những người Trung Quốc có tự trọng sẽ không còn phồng mồm, ngoác miệng nói rằng, Trường Sa, Hoàng Sa là của họ.
Nói về cơ duyên có được tấm bản đồ cổ này, TS. Mai Hồng nhớ lại: “Cách đây khoảng hơn 30 năm về trước, có một ông cụ biết tôi hay sưu tầm sách cổ nên đã mang đến bán cho tôi. Lúc đó, tôi không để ý lắm, chỉ nghĩ là bản đồ cổ thì mua. Nhưng từ khi tình hình Biển Đông ngày càng căng thẳng, tôi lục tìm tài liệu và vô tình phát hiện ra điều hiển nhiên trong tấm bản đồ cổ của chính người Trung Quốc”.
Từ đó, ông tìm hiểu, tra cứu và dịch để hiểu rõ hơn về lai lịch của tấm bản đồ này. Ngay khi thấy được tầm quan trọng của tấm bản đồ, ông đã tự nguyện tặng Bảo tàng lịch sử quốc gia mà không đòi hỏi một điều gì.
Năm Mậu Tý Khang Hy 47 (1708) đời vua Thanh Thánh Tổ Nhân Hoàng đế, Thánh Tổ nhà Thanh tuyển phái các giáo sĩ Bạch Tấn Lôi hiếu, Tư Đỗ Đức mỹ, chế tác Vạn lý thành đồ, sau hơn một năm (1710) thì công việc hoàn thành. Vua vui mừng, lại xuống chiếu cho [giáo sĩ] Phan Như Lôi hiếu, Tư Đỗ Đức mỹ vẽ bản đồ Mạch đại thành của Mông Cổ, Mãn Châu hợp thành [bản đồ của] hai tỉnh Trực Lệ và Sơn Đông.
Đến năm Tân Mão Khang Hy 50 (1711), vua sai các giáo sĩ đi tới khắp 13 tỉnh, đo lường đất đai tạo bản đồ Mạch đại “Thành Thang chuộng hiền”, đi về các tỉnh Thiểm Tây, Sơn Tây, Giang Tây, Quảng Đông, Quảng Tây; Phùng Bỉnh, Chính Đức, Mã Nặc đi về các tỉnh Hà Nam, Chiết Giang, Phúc Kiến, Giang Nam; Phí Ẩn, Hòa Phan - như đi về các tỉnh Vân Nam, Tứ Xuyên, Quí Châu, Hồ Quảng.
Trải qua một năm bốn lần đọc duyệt, qui mô bắt đầu định hình. Các giáo sĩ đều được triệu tập về kinh đô để họ múa bút vẽ họa, sau hai năm công việc cáo thành với bức toàn đồ 15 tỉnh, tấu trình lên vua ngự lãm. Ngài vui khuyến khích bằng nghi lễ long trọng. Từ đấy các nhân sĩ Trung Hoa và phương tây sưu tập khảo cứu các dư đồ Trung Quốc. Đại để là gia cố bồi tập thêm từ các nguyên cảo của các giáo sĩ đã soạn thảo trước đây.
Ta không do dự về kiến văn cô lậu nông cạn của mình để mô tả bức họa này lại không dám tự khoe rằng chỉ một mình có nhiều công hơn cả tiền nhân. Duy về cương vực của các thôn ấp quận huyện ở các tỉnh đã có thay đổi đôi chút, cho nên xem chỗ nào thiếu thì bổ sung, chỗ nào nhầm lẫn thì đính chính sửa sang, làm bớt sai suyễn và làm sáng sủa hơn lên để khi nhìn vào đó thấy rõ ràng như nhìn vào lòng bàn tay, tại các cửa biển ở các miền diên hải đều phỏng họa các đường thủy tầu thuyền ra khơi vào cảng. Tự hỏi nếu mắc một lỗi thì sẽ lấy gì đề bù đắp đầy đủ cho cách nhìn của vạn con mắt? Nhưng nếu có tri thức tất sẽ nói được lời nói gồm chung thiện ý với mọi người.
Mùa xuân năm Quang Tự nhà Thanh Giáp Thìn (1904), Giám đốc [Chủ biện] đài Thiên văn ở Dư Sơn Sái Thượng Chất chép.
(Trích Địa dư toàn đồ các tỉnh của triều đình nhà Thanh)
Hồng Chuyên
Nguồn: giaoduc.net.vn