Lập luận của TQ bao gồm:
1. Người TQ đã phát hiện ra các đảo này sớm nhất và đã đặt tên cho chúng.
2. Ngư dân TQ đã khai thác các đảo này từ hàng nghìn năm nay. Điều đó chứng minh chủ quyền của TQ.
3. Sự quy thuộc các đảo này vào TQ được củng cố bằng các phát hiện khảo cổ học.
4. TQ đã thực hiện các hành động cai quản trên các đảo này từ lâu đời. Chúng ta sẽ xem xét lập luận của TQ trong hai tiểu giai đoạn sau: thiết lập một danh nghĩa ban đầu và việc củng cố danh nghĩa đó.
Theo bản đồ do triều đình nhà Thanh ấn hành năm 1894 thì đến cuối thế kỷ XIX "lãnh thổ của Trung Quốc chỉ chạy đến đảo Hải Nam là hết” - trong ảnh: Đại Thanh nhất thống toàn đồ (đảo nhỏ ở phía dưới là Hải Nam, gần đó bên trái là Giao Chỉ (VN), đảo lớn hơn bên phải là Đài Loan) - Ảnh: biengioilanhtho.gov.vn |
“Từ thời Hán Vũ đế trước công lịch hai thế kỷ, nhân dân TQ đã bắt đầu đi lại trên biển Nam. Trải qua thực tiễn hàng hải lâu dài nhân dân TQ đã lần lượt phát hiện các quần đảo Tây Sa (Paracels) và Nam Sa (Spratlys)” - Sách trắng của Bộ Ngoại giao TQ ngày 30.1.1980: “Chủ quyền không thể tranh cãi của TQ trên các đảo Tây Sa và Nam Sa” đã khẳng định như vậy. Để chứng minh danh nghĩa lịch sử của họ, phía TQ đã dựa trên những cuốn sách chính như sau:
- Nam châu dị vật chí của Dương Phù và Phù Nam truyện của Khang Thái, đều viết vào thời Tam Quốc (220-265); Vũ kinh tổng yếu của Tăng Công Lượng (998-1078) và Đinh Độ (990-1053) thời Tống biên soạn; Mong Liang Lu được soạn dưới thời nhà Tống (960 - 1127); Đảo di chí lược do Vương Đại Uyên soạn dưới thời nhà Nguyên (1206 - 1368); Đông Tây dương khảo của Trương Nhiếp viết dưới thời nhà Minh (1368 - 1644); “Trịnh Hòa hàng hải đồ” trong Vũ bị chí của Mao Nguyên Nghi biên soạn đầu thế kỷ XVII; Độc sử phương dư kỷ yếu của Cố Tổ Vũ đầu nhà Thanh; Hải Quốc văn kiến lục của Trần Luân Quýnh năm 1730; Dương phòng tập yếu của Nghiêm Như Dục viết, Trương Bằng Phi khắc năm 1828; Quỳnh Châu phủ chí giữa thế kỷ XIX; Quảng Đông đồ thuyết (1862-1875); Canh lộ bạ do ngư dân các đời kể lại.
Các sách kể trên hoàn toàn không phải là các chính sử được viết bởi các cơ quan chính thức của nhà nước. Phần lớn chúng là những ghi chép về các chuyến đi, các chuyên khảo và các sách hàng hải thể hiện những nhận biết địa lý của người xưa liên quan không chỉ tới lãnh thổ TQ mà còn tới lãnh thổ của các nước khác.
Ví dụ, Hải Quốc văn kiến lục, đúng như tên sách, phần lớn nói về các miền mà người TQ gọi là “man di” nhiều hơn là TQ.
Sách Tống sử phần Ngoại quốc chép chuyện Chiêm Thành: “Năm Thiên Hy thứ hai (1016) vua Chiêm Thành là Thi Mặc Bài Ma Diệp sai sứ là La Bi Đế Gia chở đồ cống sang... La Bi Đế Gia nói rằng người nước tôi trên đường sang Quảng Châu, nếu bị thuyền dạt ra Thạch Đường thì cả năm cũng không tới nơi được”. Cứ theo đó mà suy thì từ Chiêm Thành đến Quảng Châu có vùng được gọi là Thạch Đường nhưng không có nghĩa Thạch Đường thuộc Quảng Châu và vì sách này chép về các vùng nước người TQ coi là “man di” thì nó không thể được coi là thuộc TQ.
Sách Dư địa chí, quyển 4 phần Cương vực chép: “Phía ngoại vi của Quỳnh Châu là biển lớn tiếp với các châu Ô, châu Lý, Tô Cách Lương, phía Nam đến Chiêm Thành, phía Tây đến Chân Lạp, Giao Chỉ, phía Đông đến Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Đường... Người địa phương đi thuyền đều không biết rõ đâu là vị trí thực của chúng”. Trong tất cả các sách kể trên, liệt kê một đống lẫn lộn các tên Cửu Nhũ Loa Châu, Thạch Đường, Thiên Lý Vạn Đường, Trường Sa, Thiên Lý Trường Sa và Vạn Lý Trường Sa nhưng không có tên Tây Sa và Nam Sa. Bản thân người TQ cũng không định rõ được vị trí của chúng. Điều đó, không nghi ngờ gì đã dẫn tới những cuộc tranh cãi bất tận giữa các nhà dịch thuật và các học giả về việc thống nhất các tên gọi trên. Mặc dù Hung dan Chiu và Choon Ho Park cho rằng Vạn Lý Thạch Sành chỉ Spratlys, M.S Samuels lại bảo vệ tên đó dùng để chỉ đá ngầm mà ngày nay có tên gọi là Trung Sa (Macclesfield Bank).
Phù Nam truyện chép: “Trong Trướng Hải có các bãi san hô, dưới bãi là đá tảng san hô mọc trên đó”.
Nam Châu di vật chí ghi lại: “Kỳ đầu Trướng Hải nước nông có nhiều từ thạch, thuyền lớn nằm ngoài biên cương, đóng đai sắt, đi lại dựa trên la bàn”.
Xuất phát từ những ghi chép đó, người TQ cho rằng Trướng Hải là biển Nam Trung Hoa bao gồm tất cả các đảo của biển Nam Hải. Tuy nhiên, chúng ta có thể có một vài nhận xét:
- Các đoạn văn trích trên không cho thấy rõ vị trí chính xác của Trướng Hải. Chúng cũng không xác định rõ các thạch sành nói trên chính là Tây Sa và Nam Sa. Các sách trên, đúng như tên gọi, đều là miêu tả các lãnh thổ “man di”, nước ngoài, không phải lãnh thổ TQ.
- Nam Châu dị vật chí được soạn thời Tam Quốc (220-265) lại nói tới việc sử dụng la bàn trong hàng hải, thế nhưng dụng cụ hàng hải này dường như chỉ mới xuất hiện từ thế kỷ thứ X.
- Cụm từ “nằm ngoài biên cương” cho thấy các đảo đá này không thuộc lãnh thổ TQ. Giả định này còn được khẳng định bởi các tài liệu chính thức khác của TQ mô tả và phân định lãnh thổ của “Thiên triều” kết thúc ở điểm cực Nam của đảo Hải Nam như: Quỳnh Châu phủ chí (1731), Hoàng Triều di tông tâm lĩnh (1894), Đại Thanh di đồ (1905)... hay các sách, bản đồ cổ khác của người TQ đều xác định rõ điểm mút phía Nam của lãnh thổ TQ nằm ở Nhai Châu, thuộc phủ Quỳnh Châu tỉnh Quảng Đông tại vĩ độ 18o13’ Bắc. Điều đó còn được khẳng định bởi sách Địa lý Giáo khoa thư, Thương Vụ ấn Thư Quán, Thượng Hải (TQ) năm 1906 xuất bản: “Phía Nam bắt đầu là vĩ độ 18o13’ Bắc lấy bờ biển Châu Nhai đảo Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam) làm điểm mút”. Chúng ta không thấy trong các tác phẩm này một ghi chép nào về các quần đảo nằm ngoài điểm cực Nam đó.