Tạo sự khác biệt ở đại học từ chuyển đổi số, công nghệ số
Cuộc sống số - Ngày đăng : 11:24, 31/03/2024
Đại học thường là những tổ chức tồn tại lâu dài, hàng trăm năm, nhiều trăm năm. Là một tổ chức đặc biệt. Doanh nghiệp thì được 20 năm là dài. 30 năm rất ít nên Học viện phải nghĩ đến sự tồn tại lâu dài đó và phải có tầm nhìn dài hạn, nhìn ra tương lai và phải có một ngôi sao dẫn lối. Một tầm nhìn xa vào tương lai thì sẽ dẫn dắt Học viện tốt hơn. Một tầm nhìn xa vào tương lai thì sẽ giúp Học viện đảm bảo được tính xuyên suốt, nhất quán trong phát triển và kéo dài con đường của mình. Chỉ có như vậy mới tạo dựng được một ĐH trăm năm và dài hơn nữa.
Riêng ĐH mới có điều này, các tổ chức khác thì khó. Phải nghĩ đến câu chuyện 100 năm, 200 năm, 400 năm, phải có tầm nhìn xa nên mới làm được việc mình dễ hơn. Đương nhiên thấy tự hào khi mình sinh ra trong một tổ chức. Mình đi làm một đời người đến lúc về hưu không có chỗ quay về thì rất khổ. Học viện là nơi lưu trữ mình mãi, Học viện còn tồn tại thì còn mình ở đó.
Mặc dù là dài hạn nhưng phải nghĩ đến viên gạch mà thế hệ này góp phần vào xây dựng Học viện. Nghĩ xa và nghĩ lớn nhưng mà thực hiện bằng những bước đi nhỏ. Bước đi nhỏ và có ngôi sao dẫn lối thì sẽ đến đích. Bước đi nhỏ mà không có ngôi sao dẫn lối thì sẽ thành đi luẩn quẩn, lòng vòng.
Muốn lâu dài thì phải xây những nền tảng, làm tốt cái móng rồi làm những tầng nhà đầu tiên. Cho nên, lãnh đạo Học viện xem Học viện đã có những nền tảng gì, những nền tảng gì còn phải xây. Thế hệ này xây gì và thế hệ sau nên xây gì. Nền tảng tốt sẽ đảm bảo cho sự phát triển nhanh và bền vững của một tổ chức. Người lãnh đạo xuất sắc thì bao giờ cũng chú trọng tạo ra nền tảng vì nền tảng còn tồn tại lâu dài và tồn tại sau nhà lãnh đạo. Không tạo ra nền tảng thì có thể dùng sự phát triển nhanh trong ngắn hạn nhưng sự phát triển này cũng sẽ ra đi cùng với nhà lãnh đạo. Có những tổ chức phát triển nóng, phát triển rất nhanh và khi lãnh đạo rời đi thì cũng đi theo vì người đó không chú trọng tạo nền tảng. Bởi vậy, hãy coi Học viện là ngôi nhà mà nhiều thế hệ xây dựng, mỗi thế hệ, mỗi người sẽ góp một viên gạch của mình để xây nên ngôi nhà đó.
Một tổ chức muốn tồn tại lâu dài thì sứ mệnh, tầm nhìn và giá trị cốt lõi phải được hình thành và duy trì xuyên suốt. Học viện phải chính thức hoá những việc này. Các đồng chí phải xem lại văn bản hoá, chính thức hoá và coi cái này là cái gốc cần phải giữ trong quá trình phát triển, tức là cái bất biến. Giữ vững cái bất biến này mới vạn biến được. Vạn biến để linh hoạt thay đổi, phù hợp với thời đại. Không có vạn biến thì không thể thích nghi, phát triển. Thích nghi mà không giữ bất biến thì mất phương hướng và thường bị nhấn chìm trong sự hỗn loạn. Phải có cái bất biến. Nắm giữ bất biến mà không vạn biến thì chết. Nắm giữ vạn biến mà không có bất biến thì chết nên phải có cả hai.
Muốn phát triển lâu dài thì phải xây dựng văn hoá. Văn hoá thì tạo ra chất keo dính. Chất keo kết dính mọi người trong Học viện và tạo ra một môi trường lành mạnh. Văn hoá là cái không thành văn, cái ngấm sâu, tự giác. Văn hoá xử lý những cái không nằm trong quy định, vốn là những cái rất là nhiều, rất dễ dẫn đến mâu thuẫn. Văn hoá là cái còn lại khi không còn cái gì khác, khi không còn lại cái gì. Văn hoá cũng là cái khác biệt của tổ chức. Học viện đã tuyên bố giá trị văn hoá và cần duy trì xuyên suốt. Chủ tịch Học viện nên nhận lấy trách nhiệm xây dựng văn hoá.
Văn hoá muốn ngấm sâu vào tổ chức thì những giá trị văn hoá phải được cài đặt vào hệ điều hành, vào các quy định, quy chế của tổ chức. Xây dựng văn hoá của một tổ chức là việc khó. Văn hoá là ngấm vào hoạt động hàng ngày, trở thành thói quen, không cài đặt vào hệ thống, trong các quy định hàng ngày. Sống trong tổ chức thấy yêu tổ chức đó, đến một tổ chức thấy gắn kết, đó là văn hóa. Văn hoá là cái luật bất thành văn như là luật. Người mất văn hoá bị đào thải, bị xa lánh. Dù nó không phải là quy định. Cuộc sống có nhiều thứ không thuộc quy định, gọi là tùy biến; văn hóa của tổ chức sẽ hướng theo một chiều hướng nhất định nào đó.
Công nghệ số ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến đào tạo. Có lẽ chưa bao giờ đào tạo có sự thay đổi lớn đến như thế này. Sự thay đổi mang tính căn bản này là biểu hiện cho các đại học đi sau, vượt lên trên. Thực ra, nếu không có những cuộc cách mạng công nghiệp mới, không có công nghệ số thì đứng đâu đứng đó, thường những lúc thay đổi như thế này thì tạo ra cơ hội nên Học viện có thể vượt lên, thay đổi thứ hạng nên chỉ có trong lúc này có cơ hội. Vì vậy, Học viện phải quyết tâm mạnh mẽ ứng dụng công nghệ số mới, công nghệ mới để chuyển đổi cách đào tạo gọi là CĐS Học viện.
Muốn vươn lên trở thành đại học hàng đầu Việt Nam và trong khu vực thì con đường duy nhất là CĐS. Giải quyết những tồn tại kéo dài của Học viện, khắc phục những hạn chế về nguồn lực, tạo ra những nguồn lực mới, tạo ra sự khác biệt, cách giải quyết vấn đề mới, cách tiếp cận mới thì phải dựa trên công nghệ số và CĐS. Phát triển nhanh được cũng dựa trên công nghệ số, dựa trên đào tạo online. Phát hiện nhanh được vấn đề cũng là đưa lên môi trường số.
Một trong những đặc trưng quan trọng của thời công nghệ số là nhân lực số trở thành lực lượng sản xuất chính, có nghĩa là lao động chính của Học viên bây giờ sẽ không chỉ là các giáo viên mà còn là nhân lực số. Anh em làm CNTT ở đây giờ quan trọng như giáo viên. Thời CNTT họ là lực lượng hỗ trợ, bây giờ họ là trở thành lao động chính.
Nhân lực số trong đại học thì tạo ra nền tảng đào tạo số, học liệu số, thiết kế học online, thi online. 20 – 30% nhân lực của Học viện phải là nhân lực số và Học viện cũng có thể thực hiện bằng cách thành lập 1 DN công nghệ số để thực hiện CĐS và trước tiên để cho Học viện, sau đó thì cho các cơ sở đào tạo khác. Nếu muốn tổ chức như 1 DN, như là 1 dịch vụ, như là giáo viên hay DN làm cho mình thì phải coi là lực lượng lao động chính, nguồn lực cơ bản.
Công nghệ số thì tạo ra những nghề mới. Học viện phải tập trung vào những ngành mới và coi đây là sự khác biệt căn bản của Học viện bởi vì Học viện là đại học duy nhất của ngành công nghệ số, là đại học duy nhất của Bộ TT&TT- Bộ quản lý nhà nước về công nghệ số. Học viện mà không tìm thấy sự khác biệt, tìm ra được điểm mạnh khác biệt của mình thì không thể vươn lên được.
Trong thời đại công nghệ số, Học viện tạo nên sự khác biệt thì sẽ đi trước. Học viện là trường đã mở sớm các ngành fintech, an toàn thông tin, game… Đây là sự khác biệt. Và phải khác biệt khi mở các ngành đào tạo AI, bán dẫn. Công nghệ số có gì mới thì Học viện đào tạo ngay là rất tốt, điều này quan trọng vì tạo ra sự nhận dạng đối với xã hội, ngành GD&ĐT vì cứ có gì mới thì Học viện có luôn chương trình đào tạo. Làm việc bình thường, giống người khác khó tạo ra thương hiệu và sự khác biệt. Thường cái gì mới mà muốn nhanh thì tạo ra sự nhận thức xã hội rất đặc biệt. Những cái “Ồ, à…” tạo nên thương hiệu.
Đào tạo nghề mới thì chú ý reskill, nhất là những nghề mới sinh ra bởi cách mạng công nghiệp. Người Việt Nam học rất là nhanh nên reskill rất là quan trọng. Reskill một kỹ sư phần mềm thành kỹ sư thiết kế chip với người Việt Nam dễ bởi người Việt Nam.
Nhu cầu về reskill rất là cao nên coi đây là thị trường ngách mà Học viện có thể trở thành trường mạnh về đào tạo reskill, trước mắt có thể reskill thiết kế chip, bán dẫn.
Mình có thể đào tạo 70.000 người đã tốt nghiệp CNTT để . Khi CMCN mới xảy ra rất nhiều nghề mới phát triển thì một số nghề biến mất nên reskill rất cần thiết và tạo sự linh hoạt cho đất nước nên anh em phải chú ý.
Công nghệ số, chuyển đổi số là đặc điểm quan trọng nhất, đóng vai trò quan trọng nhất trong sự phát triển của nhân loại trong vòng 30-50 năm nữa. Học viện có thuận lợi rất căn bản nằm trong một Bộ, ngành về CNS, CĐS. Học viện đã chưa tận dụng tốt được lợi thế này vì Học viện đã chưa tận dụng được những cái này vì học viện vẫn nghĩ mình như một đại học bình thường giống như hàng trăm đại học khác.
Nếu bây giờ anh em vẫn tiếp tục như cũ, mình có một sức mạnh cho ngành này, cả ngành này có mỗi mình là trường đại học về ngành, sức mạnh nằm trong Bộ quản lý nhà nước về lĩnh vực này, chẳng bao giờ có thuận lợi như vậy. Đây là lợi thế căn bản để mình có thể vươn lên.
Đào tạo về công nghệ số thì hợp tác đào tạo đóng vai trò quyết định. Doanh nghiệp công nghệ số của VN là khoảng 45.000 với gần 2 triệu lao động. Học viện phải có thông tin, mối quan hệ về nhu cầu nhân lực ở các doanh nghiệp này và khối công việc ICT của Bộ đang trên cơ sở dữ liệu công nghệ số là cơ hội rất lớn cho Học viện. Học viện hợp tác với một số doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước để hình thành các trung tâm đào tạo có hệ thống. Đây là xu thế và không còn cách nào tốt hơn để đào tạo nhanh, chất lượng, được cập nhật liên tục, có địa chỉ đầu ra và ra trường có kĩ năng.
Hợp tác với các doanh nghiệp có cơ hội tận dụng được nguồn lực các doanh nghiệp. Có thể 30-35% là học ở doanh nghiệp, cũng sẽ giảm tải được hạ tầng của học viện. Giáo viên của doanh nghiệp cũng giảm tải gánh nặng cho học viện, chứng chỉ học, nội dung học doanh nghiệp hỗ trợ cho Học viện.
Doanh nghiệp cũng có thể giúp đào tạo lại giáo viên của học viện, rất nhiều các nước khác đã làm tốt mô hình này. Học viện có thể học và làm theo mô hình của nhiều nước như Trung Quốc và gần đây là Hàn Quốc tuyên bố việc cung cấp nguồn nhân lực về công nghiệp bán dẫn của Hàn Quốc chủ yếu dựa trên mô hình hợp tác doanh nghiệp công nghệ bán dẫn và đại học trong chiến lược phát triển bán dẫn. Anh em mình phải học theo.
Đại học hiện tại thì đi theo những mô hình đào tạo mới, mô hình kinh doanh mới. Ví dụ đào tạo theo mô hình doanh nghiệp là doanh nghiệp phải trả tiền cho đại học đổi mới, sáng tạo trong việc sáng tạo các mô hình đào tạo mới, mô hình kinh doanh mới là một hướng đổi mới sáng tạo quan trọng của đại học và học viện phải thực sự quan tâm đến vấn đề này. Đổi mới trong mô hình hợp tác, mô hình đào tạo, kể cả mô hình kinh doanh… Đổi mới trong thu học phí chỉ đơn thuần là mô hình truyền thống.
Học viện chú trọng đào tạo, xây dựng các hạ tầng này. Trong lúc chưa đầu tư được ngay thì có thể ký kết, hợp tác và sử dụng các hạ tầng đào tạo của các cơ sở doanh nghiệp; đặt hàng nghiên cứu dài hạn và cơ bản.
Tại sao hợp tác quốc tế lại quan trọng trong lĩnh vực đại học? Vừa qua, Bộ đã cử đồng chí vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế vào hội đồng trưởng. Đào tạo đại học có tính toàn cầu, có giá trị toàn cầu, đại học có tính tự chủ cao, vì vậy càng cần hợp tác, học hỏi nhau. Chưa có một đại học uy tín nào thiếu về hợp tác quốc tế. Học viện công nghệ BCVT cũng có thể lấy hợp tác quốc tế làm một điểm khác biệt, điểm mạnh của mình. Bộ TTTT ủng hộ các đồng chí về hợp tác quốc tế với những chú ý dựa trên tính hiệu quả.
Học viện phải vận hành như một doanh nghiệp, phải đưa quản trị doanh nghiệp vào Học viện. Quản trị hiệu quả nhất là quản trị doanh nghiệp. Càng lớn ra, càng to ra thì quản trị phải tốt, tư duy cũng phải như doanh nghiệp. Trước mắt thì đưa tư duy quản trị doanh nghiệp vào học viện. Có thể sử dụng các phần mềm quản trị doanh nghiệp trong Học viện.
Cuối cùng, tôi muốn nói về đạo đức trong dạy học. Vừa qua, một loạt trường đại học công nghệ thông tin và đại học nước ngoài của Mỹ đưa vào vấn đề đạo đức của lãnh đạo và làm mất uy tín của đại học. Học viện cũng nên rút ra bài học từ đây, chú ý để không xảy ra những việc đáng tiếc. Đại học vốn luôn là môi trường trong sạch và lành mạnh, giáo viên, lãnh đạo đại học vẫn luôn là những tấm gương đạo đức cho sinh viên. Những ông đại học tinh hoa này trong một giai đoạn dài hoạt động như doanh nghiệp bị vướng vào những chuyện này khá đau lòng. Mình nên nhìn đó làm gương. Có thể phát triển theo mô hình doanh nghiệp hoạt động trên thị trường nhưng mình vẫn là thầy, vẫn là đại học, vẫn cứ phải trong sáng, vẫn cứ phải làm gương. Điều này rất quan trọng…