Phía siêu mẫu Ngọc Thúy bất ngờ tố bị lừa gạt ly hôn
Pháp luật - Ngày đăng : 18:37, 16/10/2023
Chiều 16/10, TAND TP.HCM tiếp tục phiên xét xử sơ thẩm vụ án "Tranh chấp quyền sở hữu tài sản và chia tài sản chung sau ly hôn" giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Đức An (quốc tịch Mỹ) với bà Phạm Thị Ngọc Thúy (tức siêu mẫu Ngọc Thúy).
Tiếp tục phần tranh luận, luật sư Nguyễn Thị Minh Huyền (bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của siêu mâu Ngọc Thúy) bất ngờ trình bày về “bản chất thật của vụ tranh chấp”.
Theo luật sư Huyền, ngày 1/9/2006, trên cơ sở quan hệ tình cảm, ông An và bà Thúy đã đăng ký kết hôn tại Tiểu bang California, Mỹ. Trước khi kết hôn, không xác lập, ký kết bất cứ thỏa thuận tài sản tiền hôn nhân hay tài sản riêng nào ở cả Việt Nam và Mỹ.
Sau một năm chung sống, có 1 con gái thì cả hai phát sinh mâu thuẫn. Sau một trận tranh cãi lớn, ngày 28/9/2007, ông An chở bà Thúy đến văn phòng luật sư tại Mỹ, yêu cầu bà Thúy ký vào Đơn thỏa thuận ly hôn bằng tiếng Anh do văn phòng luật sư này soạn thảo. Do đang nóng giận cùng với việc không hiểu tiếng Anh nên bà Thúy đã ký mà không hiểu rõ các nội dung chi tiết. Tuy nhiên, đơn này chưa được trình nộp cho tòa án để giải quyết ngay.
Sau đó, cả hai làm hòa, ông An khẳng định sẽ huỷ bỏ Đơn thoả thuận ly hôn với bà Thuý. Do tin tưởng ông An nên bà Thúy cũng không hỏi thêm về việc này, hai vợ chồng tiếp tục chung sống bình thường.
Khoảng tháng 4/2008, khi cả gia đình đang ở Việt Nam, cả hai tiếp tục xảy ra cãi vã và ông An đột ngột thông báo đã ly hôn với bà Thúy tại Tòa án Mỹ. Lúc này, bà Thúy đang mang thai con thứ 2 được 3 tháng. Quá bất ngờ, bà Thúy nhờ bạn liên lạc với luật sư đại diện cho mình ở Mỹ để xác minh sự việc và được biết, ông An đã nộp đơn ly hôn và Tòa án tiểu bang California, hạt Orange, Mỹ đã xác định ngày kết thúc quan hệ hôn nhân giữa ông An và bà Thúy là 27/3/2008.
“Xuyên suốt từ cuối năm 2008 đến 2009, là chuỗi ngày người mẹ Phạm Thị Ngọc Thúy phải xa con mới sinh để lặn lội quay lại Mỹ tìm kiếm luật sư nhờ tiến hành các thủ tục pháp lý, xin huỷ bản án ly hôn do bị lừa gạt; cũng như một mình thực hiện thủ tục xin gia hạn thẻ thường trú tại Mỹ”, luật sư Huyền trình bày.
Sau đó, Tòa thượng thẩm bang California, hạt Orange ra 3 Bản án và một Án lệnh liên quan đến vụ ly hôn, trong đó có các quyết định về phân chia tài sản và cấp dưỡng nuôi 2 con.
Theo đó, tiền cấp dưỡng cơ bản: từ ngày 1/8/2018 cho bé A.N. là 10.752 USD/tháng và V.N. là 17.923 USD/tháng.
Tòa Thượng thẩm bang California còn buộc ông An phải trả cho bà Thúy khoản tiền cấp dưỡng nuôi con trước ngày 1/8/2018 là hơn 2 triệu 752 ngàn USD.
Ngoài ra, phía siêu mẫu Ngọc Thúy còn tố, Tòa Thượng thẩm bang California, quận Santa Clara còn ban hành Bản án ngày 10/9/2019 về lệnh bắt đối với ông An vì hành vi bất tuân lệnh của Tòa án, trong đó bao gồm hành vi không tuân thủ Bản án cấp dưỡng ngày 29/8/2018.
Cũng theo luật sư Huyền, do không có thỏa thuận tài sản riêng trước hôn nhân nên căn cứ hồ sơ mua bán, thanh toán, có căn cứ thể hiện các tài sản mà bị đơn yêu cầu chia sau ly hôn đều được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân nên đủ căn cứ để được xác định là chung của vợ chồng.
Cũng theo lập luận của luật sư, nguồn tiền mua tài sản và quá trình tạo lập tài sản chung được lấy từ nguồn tiền chung, thu nhập chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Việc ông An khai đã nhiều lần chuyển tiền cho bà Thúy qua công ty dịch vụ nhưng theo luật sư, suốt quá trình giải quyết vụ án 13 năm qua, ông An đã không cung cấp được chứng cứ chứng minh và qua thẩm vấn tại phiên tòa, nguyên đơn xác nhận không cung cấp được.
Cũng theo luật sư Huyền, xét thực tế vụ án này cho thấy bà Thúy thỏa mãn tất cả các yếu tố gồm: Cùng đóng góp tiền, thu nhập để mua tài sản chung; Đóng góp công sức chính trong việc đi mua, thanh toán, giao nhận tài sản, trực tiếp quản lý, giữ gìn, duy trì và phát triển tài sản suốt 15 năm qua; Là người trực tiếp nuôi hai con chung chưa thành niên sau khi ly hôn đến nay hơn 15 năm mà không có cấp dưỡng của ông An…
Từ những phân tích này, luật sư đề nghị HĐXX xem xét hoàn cảnh của bị đơn, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên trong việc tạo lập, duy trì và phát triển các tài sản này; chấp nhận yêu cầu chia cho bị đơn 50% tài sản chung.