Lãi suất ngân hàng 10/10/2023: Còn nhà băng nào có lãi suất trên 6%?
Tài chính ngân hàng - Ngày đăng : 11:15, 10/10/2023
Theo biểu lãi suất huy động trực tuyến vừa được công bố, Viet A Bank giữ nguyên lãi suất đối với tiền gửi kỳ hạn 1 – 5 tháng là 4,5%/năm.
Đối với lãi suất ngân hàng tiền gửi trực tuyến các kỳ hạn 6 – 36 tháng, Viet A Bank điều chỉnh giảm từ 0,1 – 0,3 điểm phần trăm.
Hiện lãi suất kỳ hạn 6 – 8 tháng giảm 0,2 điểm phần trăm xuống 5,8%/năm, kỳ hạn 9 – 11 tháng giảm 0,3 điểm phần trăm để cùng xuống mức 5,8%/năm.
Đối với kỳ hạn 12 – 13 tháng, lãi suất cùng giảm 0,2 điểm phần trăm xuống 6,1%/năm.
Lãi suất huy động các kỳ hạn 15 – 18 tháng cũng giảm 0,2 điểm phần trăm xuống 6,3%/năm. Trong khi đó, lãi suất các kỳ hạn 24 – 36 tháng giảm nhẹ 0,1 điểm phần trăm còn 6,4%/năm.
Như vậy, Viet A Bank đã đưa lãi suất tiền gửi các kỳ hạn từ 6 – 11 tháng về dưới 6%/năm. Tuy nhiên, nhà băng này cho biết vẫn có thể áp dụng mức lãi suất khác so với biểu lãi suất niêm yết đối với một số khách hàng.
Theo thống kê hiện chỉ còn 4 ngân hàng duy trì lãi suất huy động từ 6% trở lên (cao nhất 6,4%/năm) là PVCombank, NCB, HDBank, và CBBank.
Đối với kỳ hạn 9 tháng, ngoài 4 ngân hàng trên còn có thêm Bac A Bank đang duy trì lãi suất huy động từ 6% trở lên (cao nhất 6,4%/năm).
Ở kỳ hạn 12 tháng có thêm một số ngân hàng như Viet A Bank, BaoViet Bank, OceanBank, SCB, SHB, VietBank, Dong A Bank, Sacombank, và LPBank. Lãi suất huy động ở kỳ hạn này cao nhất là 6,5%/năm.
Kể từ đầu tháng 10 đã có 13 ngân hàng giảm lãi suất huy động gồm: BaoViet Bank, Techcombank, SeABank, Viet A Bank, PG Bank, VietBank, Dong A Bank, Vietcombank, LPBank, Nam A Bank, CBBank, ACB và Bac A Bank.
Trong đó, Viet A Bank là ngân hàng đầu tiên giảm lãi suất tới hai lần trong tháng này. Ngược lại, đã có một ngân hàng tăng lãi suất huy động là GPBank vào ngày 4/10.
BIỂU LÃI SUẤT HUY ĐỘNG CAO NHẤT NGÀY 10 THÁNG 10 (%/năm) | ||||||
NGÂN HÀNG | 1 THÁNG | 3 THÁNG | 6 THÁNG | 9 THÁNG | 12 THÁNG | 18 THÁNG |
PVCOMBANK | 4,25 | 4,25 | 6,4 | 6,4 | 6,5 | 6,8 |
NCB | 4,75 | 4,75 | 6,3 | 6,35 | 6,4 | 6,4 |
HDBANK | 4,45 | 4,45 | 6,1 | 6,1 | 6,3 | 6,5 |
CBBANK | 4,2 | 4,3 | 6 | 6,1 | 6,3 | 6,4 |
BAC A BANK | 4,75 | 4,75 | 5,9 | 6 | 6,1 | 6,25 |
VIET A BANK | 4,5 | 4,5 | 5,8 | 5,8 | 6,1 | 6,4 |
BAOVIETBANK | 4,4 | 4,75 | 5,8 | 5,9 | 6,1 | 6,4 |
OCEANBANK | 4,6 | 4,6 | 5,8 | 5,9 | 6,1 | 6,5 |
SCB | 4,75 | 4,75 | 5,75 | 5,85 | 6,05 | 6,05 |
BVBANK | 4,4 | 4,7 | 5,75 | 5,9 | 6,05 | 6,15 |
SHB | 4 | 4,3 | 5,7 | 5,8 | 6,1 | 6,4 |
SAIGONBANK | 3,6 | 4 | 5,7 | 5,7 | 5,9 | 5,9 |
VIETBANK | 4,55 | 4,55 | 5,7 | 5,8 | 6 | 6,8 |
DONG A BANK | 4,5 | 4,5 | 5,7 | 5,8 | 6,05 | 6,05 |
VIB | 4,75 | 4,75 | 5,6 | 5,6 | 6,2 | |
SACOMBANK | 3,7 | 3,9 | 5,5 | 5,8 | 6,2 | 6,4 |
GPBANK | 4,25 | 4,25 | 5,45 | 5,55 | 5,65 | 5,75 |
KIENLONGBANK | 4,75 | 4,75 | 5,4 | 5,6 | 5,7 | 6,4 |
PG BANK | 4 | 4 | 5,3 | 5,3 | 5,4 | 6,2 |
LPBANK | 4,15 | 4,35 | 5,3 | 5,4 | 6,1 | 6,8 |
OCB | 4,1 | 4,25 | 5,3 | 5,4 | 5,5 | 5,9 |
VPBANK | 4,1 | 4,15 | 5,2 | 5,2 | 5,5 | 5,1 |
MB | 3,6 | 3,6 | 5,2 | 5,3 | 5,6 | 6,3 |
EXIMBANK | 4 | 4 | 5,2 | 5,6 | 5,6 | 5,8 |
NAMA BANK | 4,65 | 4,65 | 5,2 | 5,3 | 5,8 | 6,4 |
ACB | 3,5 | 3,7 | 5 | 5,1 | 5,5 | |
TPBANK | 3,8 | 4 | 5 | 5 | 5,55 | 6 |
MSB | 3,8 | 3,8 | 5 | 5,4 | 5,5 | 5,5 |
TECHCOMBANK | 3,55 | 3,75 | 4,95 | 5 | 5,35 | 5,35 |
ABBANK | 3,7 | 3,9 | 4,9 | 4,9 | 4,7 | 4,4 |
SEABANK | 4 | 4 | 4,8 | 4,95 | 5,1 | 5,1 |
VIETINBANK | 3,4 | 3,85 | 4,7 | 4,7 | 5,5 | 5,5 |
AGRIBANK | 3,4 | 3,85 | 4,7 | 4,7 | 5,5 | 5,5 |
BIDV | 3,2 | 3,7 | 4,6 | 4,6 | 5,5 | 5,5 |
VIETCOMBANK | 3 | 3,3 | 4,3 | 4,3 | 5,3 | 5,3 |
Trong tuần vừa qua NHNN tiếp tục hoạt động phát hành tín phiếu, với tổng khối lượng phát hành là 46,9 nghìn tỷ đồng ở kỳ hạn 28 ngày. Phương thức đấu thầu là cạnh tranh lãi suất, và lãi suất trúng thầu có xu hướng tăng dần – kết tuần tại 1,3% (so với mức 1,0% trong phiên giao dịch tuần trước đó). Bên cạnh đó, NHNN đều đặn chào thầu trên kênh kỳ hạn 7 ngày ở mức tối thiểu (1 nghìn tỷ đồng/ngày) và không có khối lượng trúng thầu nào được ghi nhận. Kết tuần, NHNN hút ròng gần 46,9 nghìn tỷ đồng từ thị trường, đưa khối lượng tín phiếu lưu hành trên thị trường lên mức 140,7 nghìn tỷ đồng. Về diễn biến lãi suất trên thị trường 2, lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn qua đêm tăng dần lên mức 1,3% và thu hẹp chênh lệch với lãi suất USD thu hẹp xuống chỉ còn -380 điểm cơ bản. Trong báo cáo mới nhất, NHNN cho biết, tính đến cuối tháng 9, tăng trưởng tín dụng đạt 6,9% so với cuối năm 2022 – cao hơn so với mức ước tính ban đầu (6,1-6,2%) tuy nhiên vẫn thấp hơn nhiều so với cùng kỳ (9 tháng 2022: 11,1%). Sự bứt tốc này có thể đến từ yếu tố mùa vụ vào cuối quý và xu hướng tín dụng trong tháng 10 là điểm quan trọng để thấy được hiểu quả của việc hạ lãi suất huy động/cho vay từ phía các ngân hàng thương mại tới cầu tín dụng. Về thị trường tỷ giá, diễn biến tỷ giá USD/VND bật tăng nhẹ sau khi hạ nhiệt trong tuần trước đó. Tỷ giá liên ngân hàng kết tuần ở vùng 24.390 đồng/USD, tăng 90 đồng so với tuần trước đó. Tỷ giá niêm yết của Vietcombank duy trì ổn định hơn, quanh mốc 24.550 đồng/USD. Trái ngược, tỷ giá tự do tiếp tục có một tuần biến động khá mạnh và thu hẹp khoảng cách với tỷ giá niêm yết. Kết thúc tuần, tỷ giá tự do giao dịch tại vùng 24.500 – 24.550 đồng/USD (tăng 100 đồng so với tuần trước). Một yếu tố đáng chú ý trong thời gian gần đây là biến động của giá vàng trong nước và quốc tế gần như ngược chiều nhau. Giá vàng thế giới trong tuần trước đã giảm tới -0,8% trong khi giá vàng SJC trong nước vẫn có xu hướng tăng nhẹ (0,4%) và nới rộng chênh lệch giá vàng SJC trong nước và thế giới lên đến gần 15 triệu đồng/lượng. Điều này chủ yếu đến từ nguồn cung vàng trong nước/nhập khẩu bị hạn chế và NHNN cũng đã phát tín hiệu sẽ sớm sửa đổi Nghị định 24 về điều kiện kinh doanh vàng trong thời gian tới. |