Cao nhân Tam Quốc Thủy Kính tiên sinh dự đoán thế nào về Lưu Bị và Gia Cát Lượng?
Hồ sơ - nhân vật - Ngày đăng : 14:20, 03/05/2023
Lưu Biểu mời Lưu Bị đến Tương Dương dự hội, không ngờ bị Sái Mạo mang binh truy sát. May mắn ngựa quý Đích Lư không hại minh chủ, nó mang theo Lưu Bị nhảy vượt qua suối Đàn Khê rộng lớn, bỏ rơi truy binh lại bờ bên kia của dòng suối. Lưu Bị thúc ngựa chạy, trên đường gặp được một cậu bé cưỡi trâu thổi sáo. Mặc dù bèo nước gặp nhau, nhưng cậu bé chăn trâu đã gọi tên chữ của ông là “Lưu Huyền Đức”.
Lưu Bị giật mình, ở một nơi thôn trang hẻo lánh này, sao lại có người biết ông?
Qua lời của mục đồng, thì ra do sư phụ của cậu là Tư Mã Huy nói. Trong lịch sử đúng là có người tên Tư Mã Huy (?-208), là danh sĩ cuối thời Đông Hán, mọi người gọi ông là “Thủy Kính tiên sinh”. Người này tinh thông Đạo học, kinh học, kỳ môn và binh pháp. Ông học thức uyên bác, có năng lực biết người và xem người, nên được người đương thời tôn kính.
Trong “Tam Quốc diễn nghĩa”, Thủy Kính tiên sinh nói cho mục đồng rằng mấy ngày nữa Lưu Bị sẽ đến, cũng nói hình dáng tướng mạo của Lưu Bị, gọi Lưu Bị là “anh hùng đương thời”. Khi mục đồng nhìn thấy Lưu Bị, căn cứ vào lời dặn dò của sư phụ, lập tức nhận ra ông. Dưới sự chỉ dẫn của mục đồng, Lưu Bị đi đến trước một ngôi nhà. Ông nghe được một khúc đàn ưu nhã phát ra từ phía sau cánh cửa, ông dừng chân lắng nghe, bỗng nhiên tiếng đàn ngừng lại, có một vị trong nhà tươi cười đi tới, chính là Thủy Kính tiên sinh.
Vị Thủy Kính tiên sinh này quả là một vị kỳ nhân, ông nói tiếng đàn bỗng nhiên ngân lên âm điệu cao vút, liền biết ắt có anh hùng đang lén nghe ở bên ngoài, nên đứng dậy đi ra nghênh đón.
Khi Thủy Kính tiên sinh xuất hiện lần đầu tiên, tác giả La Quán Trung dùng tám chữ “dáng tùng vóc hạc, khí vũ bất phàm” để miêu tả về ông, quả là một vị thế ngoại cao nhân tiên phong đạo cốt. Lưu Bị vừa nhìn thấy Thủy Kính, vội vàng hành lễ, không ngờ Thủy Kính nói rằng: “Ngài hôm nay may mắn thoát được đại nạn!”. Nói cách khác Lưu Bị hôm nay gặp phải đại nạn, may mắn hữu kinh vô hiểm, gặp dữ hóa lành.
Theo miêu tả ở hồi 35 của tiểu thuyết, Thủy Kính tiên sinh vốn có năng lực biết trước sự việc, thậm chí còn có công năng đặc dị. Trước đó ông đã thấy được hình dáng của Lưu Bị cùng với kiếp nạn mà Lưu Bị gặp phải.
Lưu Bị vốn định giấu sự tình chạy nạn, nhưng Thủy Kính một lời đã nói hết ra sự việc: “Ngài không cần giấu giếm. Hôm nay ngài nhất định là chạy lánh nạn, chạy đến nơi này.” Lưu Bị đành phải kể sự thật bị người truy sát chạy đến đây, và cảm thán mệnh của mình có nhiều gập ghềnh long đong. Thủy Kính tiên sinh ai ủi ông rằng: “Không phải như thế, chẳng qua bên cạnh ngài không có người tài giỏi mà thôi!” Nhưng Lưu Bị cho rằng bên cạnh mình có rất nhiều nhân tài, có các võ tướng như Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân và quan văn như Tôn Càn, My Trúc … Nhưng Thủy Kính nói rằng bên cạnh Lưu Bị còn thiếu “một người có tài kinh luân tế thế”.
Giải thích câu đồng dao “Long hướng thiên phi”
Trong lần gặp gỡ và đàm luận này, Thủy Kính tiên sinh đã đề cử kỳ tài thiên hạ “Phục Long, Phượng Sồ” cho Lưu Bị, còn giải thích cho Lưu Bị một lời dự ngôn, cho rằng Lưu Bị mai sau sẽ “Thiên mệnh hữu quy” “Long hướng phi thiên”. Lưu Bị vừa nghe câu này quả rất chấn động, hướng Thủy Kính tiên sinh bái tạ. Phải biết rằng, lúc này Lưu Bị đang cảnh đường cùng, có thể nói là vạn phần chán nản.
Câu đồng dao mà Thủy Kính nhắc đến, được lưu truyền ở huyện Kinh Châu vào năm Kiến An thứ nhất. Mặc dù là đồng dao, nhưng không mang lời lẽ của trẻ con, mà có ca từ rằng:
“Bát cửu niên gian thủy dục suy,
Chí thập tam niên vô kiết di.
Đáo đầu thiên mệnh hữu sở quy,
Nê trung bàn long hướng thiên phi.”
Tạm dịch:
“Khoảng năm tám chín bắt đầu muốn suy [yếu],
Đến năm thứ mười ba không còn một ai.
Đến cuối cùng mệnh trời đã có chỗ về,
Rồng trong bùn bay hướng lên trời.”
“Khoảng năm tám chín bắt đầu suy yếu”, Thủy Kính tiên sinh nói trong khoảng năm Kiến An thứ 8 và thứ 9, sau khi vợ trước của Lưu Biểu qua đời, vợ sau của Lưu Biểu là Sái phu nhân không đồng ý cho con trai của người vợ trước làm người thừa kế, vì thế Lưu gia sinh loạn, đây chính là cái được gọi là “bắt đầu muốn suy”. Người “không còn một ai”, là sau khi Lưu Biểu qua đời vào năm Kiến An thứ 13, văn thần võ tướng sẽ rời rạc tan tác. Mà “Mệnh trời có chỗ về”, “Rồng bay hướng lên trời” chính là sẽ ứng lên Lưu Bị.
Ngọa Long “gặp được chủ, không gặp thời”
Thủy Kính tiên sinh nói “Phục Long, Phượng Sồ, được một trong hai người, có thể an định thiên hạ.” Trong chuyện Tam Quốc, Gia Cát Lượng văn thao vũ lược, giỏi mưu nhiều kế. Ông trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, là một người có đủ cả trí tuệ, trung trinh, mưu lược, có thể nói là trí tuệ siêu quần. Luận về tài của ông, bất kể là về phương diện quân sự hay là chính trị thì đều là tài năng xuất chúng. Vị kỳ tài này hầu như đã chiếu sáng cả thời đại Tam quốc.
Gia Cát Lượng, tự là Khổng Minh, người đời gọi ông là “Ngọa Long tiên sinh”. Khi Lưu Bị biết được “Phục Long” là Gia Cát Khổng Minh, ông liền chuẩn bị lễ vật dự định đến bái phỏng. Vừa khéo Thủy Kính tiên sinh đi tới Tân Dã thăm Từ Thứ, nghe nói Từ Thứ đã rời đi, đồng thời giới thiệu Lưu Bị đi tìm kiếm Gia Cát Khổng Minh. Thủy Kính tiên sinh nói, Gia Cát Lượng thường ví mình như Quản Trọng, Nhạc Nghị, nhưng bản thân ông (Thủy Kính tiên sinh) cho rằng Gia Cát Lượng có thể sánh ngang với Khương Tử Nha của nhà Chu, Trương Lương của nhà Hán. Lưu Bị, Quan Vũ nghe xong đều cảm thấy rất kinh ngạc, sửng sốt.
Trước khi từ biệt Lưu Bị, Thủy Kính tiên sinh ngửa mặt lên trời cười to, cảm thán một câu “Ngọa Long tuy gặp được chủ, nhưng không gặp được thời, tiếc thay!” Ông cảm thấy vạn phần tiếc nuối than thở vì Gia Cát Lượng sinh không gặp thời.
Lưu Bị ba lần đến nhà tranh, đạt được như nguyện, mời được Gia Cát Lượng rời núi. Lưu Bị khởi đầu đầy gian nan, được Gia Cát Lượng tận lực giúp đỡ, chẳng khác gì thêu hoa trên gấm. Sau khi Gia Cát Lượng rời núi, đã giúp Lưu Bị chiếm được Kinh Châu, Ích Châu, Hán Trung. Có lẽ bởi vậy, Thủy Kính tiên sinh nói Gia Cát Lượng gặp Lưu Bị như “gặp được chủ”. Vậy sao Gia Cát Lượng “không gặp thời”?
Gia Cát Lượng không gặp thời
Theo cục diện lúc đó, cuộc chiến của Tào Tháo ở phương bắc, đại thế đã thành. Sau trận Quan Độ, đại quân Tào Ngụy đánh đâu thắng đó, thế như chẻ tre. Tào Tháo quét sạch quần hùng ở phương bắc, các văn thần võ tướng dưới trướng đều nghe theo lệnh của ông ta như Tư Mã Ý, Tuân Úc, Quách Gia, Hạ Hầu Đôn, Hứa Chử, Trương Liêu… văn thần võ tướng dưới trướng Tào Tháo thời đó đều như sao sáng.
Từ năm Kiến An thứ hai đến năm thứ 16 (197-211), Tào Tháo lần lượt xuất binh đánh bại các cường hào như Lữ Bố, Viên Thuật, Viên Thiệu, thống nhất phương bắc. Năm Kiến An thứ 21 Tào Tháo thụ phong thành Ngụy Vương. Khi Tào Phi xưng đế, đã truy tôn Tào Tháo thành Ngụy Vũ Đế. Điều này về sau sẽ nói.
Đông Ngô chiếm ưu thế về địa lý của một vùng, có sông Trường Giang che chở nơi hiểm yếu, về vị trí chiến lược là dễ thủ khó công. Trải qua sự cai quản của mấy đời nhà họ Tôn như Tôn Kiên, Tôn Sách, Tôn Quyền, nhân tài của Đông Ngô nhiều vô kể. Với sự phụ tá của Chu Du, Lục Tốn, Lỗ Túc, Trương Chiêu, Cố Ung …, Tôn Quyền ở Giang Đông nắm quyền lực ổn định vững vàng.
Tổng quan trong giới quần hùng, lúc này địa hạt của Lưu Bị chỉ có Tân Dã, võ tướng chỉ có Quan, Trương, Triệu, văn thần mưu sĩ cũng có thể đếm được trên đầu ngón tay. Lưu Bị chứng kiến thiên hạ đại loạn, có tâm phụ tá Hán thất, an bang định quốc. Ông đến Long Trung thỉnh Gia Cát Lượng, nhất thời không gặp, nửa đường gặp được bạn thân của Gia Cát Lượng là Thôi Châu Bình.
Từ thái bình đến loạn lạc, thiên thời không thể trái
Hai người nói đến thế cục trước mắt, Thôi Châu Bình cho rằng, từ xưa đến nay, khi yên bình khi loạn lạc thất thường. Từ lúc Lưu Bang chém rắn khởi nghĩa, trừng phạt vô đạo, là từ thời loạn đi vào thời thái bình thịnh trị. Sau khi triều nhà Hán thái bình được 200 năm, xuất hiện Vương Mãng soán ngôi nhà Hán, là từ thời bình chuyển sang thời loạn. Hán Quang Vũ Đế trung hưng, chấn chỉnh cơ nghiệp Hán thất, là từ thời loạn đi vào thời trị. Người dân được an định 200 năm rồi, bấy giờ thiên hạ lại khởi can qua, chính là từ thời bình đi vào thời loạn. Cho nên Thôi Châu Bình cho rằng Lưu Bị ở vào thời loạn này thỉnh Gia Cát Lượng xuống núi, xoay chuyển trời đất, chắp vá càn khôn, chỉ e không phải là chuyện đơn giản, ông thấy rằng chắc chắn là uổng phí tâm lực. Thiên thời như thế, số định như thế, con người thế gian cuối cùng khó mà cưỡng cầu.
Lưu Bị một lòng phò tá Hán thất, không muốn bỏ mặc cho thiên số và định mệnh, thật lòng thật tâm muốn thỉnh Gia Cát Lượng. Bố cục lúc đó, Tào Tháo đã chiếm được hơn nửa thiên hạ, Tôn Quyền của Đông Ngô trấn giữ phần nửa bên kia của Giang Nam. Bất kể là về vùng đất cai quản, nhân tài, hay là dân cư, đều lớn hơn Lưu Bị rất nhiều. Có thể nói nước Thục sinh tồn trong một khe hẹp vậy. Năm 211 Lưu Bị chính thức xưng Đế. Vì báo thù cho huynh đệ kết nghĩa là Quan Vũ và Trương Phi, Lưu Bị dẫn quân tấn công Đông Ngô, bị chiến tướng Lục Tốn của Đông Ngô đánh bại. Không lâu sau đó, Lưu Bị lâm bệnh và qua đời ở thành Bạch Đế, đến lúc chết cũng vẫn chưa thể thống nhất thiên hạ.
Giữa ba nước chinh phạt lẫn nhau, không một ngày bình yên. Đó là ứng theo thiên thời “từ thời bình đi vào thời loạn” như lời của Thôi Châu Bình từng nói. Có lẽ vì vậy, Thủy Kính tiên sinh nói Gia Cát Lượng là “không gặp được thời”. Cho dù như thế, thân ở thời phong vân loạn thế, Gia Cát Lượng vì báo ân tri ngộ của Lưu Bị, vì phục hưng Hán thất mà dốc hết tâm huyết, cúc cung tận tụy, đã diễn dịch ra một truyền kỳ trung trinh trong thời loạn thế.
- Dựa theo Hồi thứ 35 và Hồi thứ 37 của truyện “Tam Quốc diễn nghĩa”
Sưu tầm