Phân biệt đột tử và đột quỵ
Tin Y tế - Ngày đăng : 01:06, 06/03/2023
Nhồi máu cơ tim là một trong những nguyên nhân khiến nhiều người đột tử. Ảnh: iStock. |
Đột quỵ và đột tử vốn là hai thuật ngữ khác nhau dùng để mô tả các tình trạng cấp cứu tối khẩn cấp của cơ thể. Đặc điểm biểu hiện chung của 2 tình trạng này là diễn tiến đột ngột, dễ dẫn đến tử vong tức thời nếu không được nhận diện và xử trí kịp thời.
Theo các bác sĩ, việc phân biệt đột quỵ và đột tử do tim rất quan trọng, vì cách xử trí ban đầu và phác đồ điều trị bệnh nhân hoàn toàn khác nhau.
Hai tình trạng cấp cứu của não và tim
PGS.TS Nguyễn Huy Thắng, Chủ tịch Hội Đột quỵ TP.HCM, kiêm Trưởng khoa Bệnh lý mạch máu não, Bệnh viện Nhân dân 115 (TP.HCM), cho hay đột tử có thể xuất phát từ thuật ngữ “sudden cardiac death” hoặc “sudden cardiac arrest”.
Biểu hiện thường gặp khi một bệnh nhân đang trong trạng thái bình thường thì đột nhiên gục xuống, do tim ngừng đập một cách đột ngột.
Người bị đột tử có thể tử vong trong ít phút nếu không được cấp cứu kịp thời. Nguyên nhân của đột tử thường do tắc nghẽn mạch máu nuôi tim (mạch vành) hoặc do bệnh lý rối loạn nhịp tim.
Trong khi đó, đột quỵ xuất phát từ thuật ngữ “stroke”, trước đây dùng “cerebrovascular accident”, hay tai biến mạch máu não.
Bàn tay đầy vết thương do lưỡi dao lam của một bệnh nhân đột quỵ. Đây là phương pháp sơ cứu sai lầm, khiến người bệnh mất đi "thời gian vàng" cấp cứu đột quỵ. Ảnh: BCSS. |
Hai dạng đột quỵ là đột quỵ thiếu máu não và xuất huyết não. Tuy nhiên, các tài liệu nước ngoài mặc định hiểu stroke là đột quỵ thiếu máu não. Nếu đề cập đột quỵ do xuất huyết não, người ta dùng một thuật ngữ khác là “Intracranial hemorrhage”, tức xuất huyết nội sọ.
Đột quỵ gây ra do tình trạng mạch máu não bị tắc nghẽn đột ngột, khiến các tế bào não chết, mất chức năng thần kinh. Khi tắc nghẽn mạch máu lớn trong thời gian dài, số lượng tế bào não chết với thể tích lớn có thể dẫn đến hiện tượng phù nề, gây ảnh hưởng đến ý thức, hôn mê.
Khi tình trạng nặng hơn và mất thêm nhiều thời gian hơn, hiện tượng chèn ép, gây thoát vị não xuất hiện, ảnh hưởng đến vùng thân não. Đây được xem là tổng chỉ huy của hệ tuần hoàn và hô hấp. Đến lúc này, đột quỵ mới có thể làm cho bệnh nhân tử vong.
Về đột tử do tim, thạc sĩ, bác sĩ Giang Minh Nhật, khoa Nội tim mạch, Bệnh viện Nhân dân Gia Định (TP.HCM), lý giải nguyên nhân thường gặp nhất là nhồi máu cơ tim cấp, khi dòng máu từ động mạch vành cấp máu nuôi cơ tim bị tắc nghẽn. Nguyên nhân gây tắc nghẽn thường là huyết khối, làm cơ tim bị tổn thương và chết đi.
Bên cạnh đó, đột tử do tim cũng có thể là tình trạng rối loạn nhịp tim ở người hoàn toàn bình thường trước đó, hay ở bệnh nhân có bệnh tim nền (suy tim, các bệnh cơ tim, thiếu máu nuôi cơ tim mạn tính…).
Biểu hiện không giống nhau
Theo PGS Nguyễn Huy Thắng, giữa đột quỵ với đột tử có 2 điểm khác biệt quan trọng.
Đầu tiên, hơn 90% các trường hợp đột quỵ bắt đầu bằng triệu chứng F.A.S.T.: Yếu liệt nửa người, méo miệng và nói đớ. Vì vậy có thể nói, không có các triệu chứng F.A.S.T., gần như ít có khả năng kết luận bệnh nhân bị đột quỵ.
Khác với đột quỵ, người bệnh vẫn còn "thời gian vàng" cấp cứu và không gây tử vong trong những giờ đầu tiên. Trong khi đó, đột tử có thể gây tử vong trong ít phút.
Thạc sĩ, bác sĩ Giang Minh Nhật tóm tắt sự khác biệt trong biểu hiện của đột tử do nhồi máu cơ tim cấp và đột quỵ như sau:
Đột tử do tim | Đột quỵ | |
Biểu hiện | - Đau ngực: Hầu hết bệnh nhân nhồi máu cơ tim có cảm giác đè nặng, đau nhói hay đau thắt nghẹt vị trí giữa ngực, kéo dài vài phút. Cơn đau có thể một cơn hoặc kéo dài nhiều cơn. - Cảm giác khó chịu lan đến nhiều vị trí khác của cơ thể như cánh tay, lưng, cổ, hàm dưới. - Khó thở kèm các triệu chứng khác như vã mồ hôi lạnh, buồn nôn, choáng váng. - Diễn tiến có thể dẫn đến mất tri giác, không đáp ứng khi lay gọi, ngưng thở, thở không hước, kiểm tra tim không còn đập, mạch không nảy. Thời gian là sự sống còn của cơ tim, bệnh nhân cần được đưa đến cơ sở y tế có chuyên khoa tim mạch sớm nhất. | Triệu chứng méo miệng thường được gọi là F.A.S.T, bao gồm những biểu hiện sau: - Méo miệng (Face Drooping - F): Méo miệng một bên, biểu hiện rõ nhất khi cười, nhe răng, đôi khi có cảm giác tê một bên mặt. - Yếu liệt tay chân (Arm weakness - A): Một bên tay chân yếu, liệt hay mất cảm giác; tay rơi xuống khi được yêu cầu đưa lên cao, một tay rơi xuống. - Ngôn ngữ bất thường (Speech difficulty - S): Không thể nói, không thể hiểu lời nói. Có thể yêu cầu người bệnh lặp lại một câu nói đơn giản để xem họ có thể lặp lại được hay không. - Thời gian (Timing - T): Thời gian là sự sống còn của não, vì vậy bệnh nhân cần được đưa đến cơ sở y tế sớm nhất. Tri giác có thể bất thường, nhưng kiểm tra tim vẫn còn đạp, mạch còn nảy. |
Xử trí ban đầu | Hồi sức tim phổi | Ổn định bệnh nhân |
Thời gian "vàng" cấp cứu | Người bệnh thường tử vong chỉ trong ít phút | Càng sớm càng tốt, khung giờ "vàng" là 6 giờ đầu |
Theo Dịch vụ Y tế quốc gia Anh (NHS), đột tử và đột quỵ dù khác nhau về triệu chứng nhưng đều có chung đối tượng có yếu tố nguy cơ đều là người có tình trạng thừa cân, uống nhiều đồ uống có cồn, hút thuốc lá, ít vận động, mắc các bệnh béo phì, cao huyết áp đái tháo đường... gia đình có người thân từng đột quỵ/đột tử.
Do vậy, để giảm nguy cơ gặp phải đột tử hoặc đột quỵ, mọi người cần thay đổi lối sống:
- Bỏ thuốc nếu có thói quen hút thuốc lá.
- Giảm cân nếu thừa cân hoặc béo phì.
- Tập thể dục thường xuyên, ít nhất 150 phút/tuần.
- Tuân thủ chế độ ăn ít muối, chất béo, nhiều chất xơ, ngũ cốc nguyên hạt, trái cây và rau xanh.
- Khám sức khỏe định kỳ để tầm soát và phát hiện sớm nguy cơ.