Paul Doumer: Ba mặt một con người
Hồ sơ - nhân vật - Ngày đăng : 16:14, 17/08/2022
Cầu Long Biên bắc qua sông Hồng tại Hà Nội trước năm 1945 gọi là cầu Doumer, đặt theo tên viên toàn quyền Pháp Paul Doumer - người chính thức quyết định xây cầu này. Ông “trị vì” 5 xứ Đông Dương những năm bản lề hai thế kỷ 19 và 20 (1897-1902). Năm 1931, ông được bầu làm tổng thống thứ 14 nước Cộng hòa Pháp.
Toàn quyền Đông Dương (1897 - 1902) Paul Doumer. Ảnh: S.T
Từ người viết báo thành nghị sĩ
Paul Doumer xuất thân từ một gia đình lao động, bố làm công nhân xe lửa. 12 tuổi, Paul đã phải đi kiếm sống, làm thợ khắc, sau đó vào học trường dạy nghề. Chàng thanh niên Paul là người có nghị lực, năm 20 tuổi đỗ bằng cử nhân toán học, năm sau lấy tiếp bằng cử nhân luật, trở thành chuyên gia tài chính. Sau một thời gian ngắn dạy học, ông ra làm báo, gia nhập đảng cấp tiến Pháp, được bầu làm nghị sĩ của đảng này và từ đó bước vào chính trường.
Gia đình Doumer được ngợi ca về lòng yêu nước. Ông có 5 con trai thì 4 người chiến đấu và hy sinh trong chiến tranh thế giới thứ nhất. Bản thân P. Doumer là quốc vụ khanh, thành viên Hội đồng Chiến tranh do tổng thống Pháp chủ trì. Ông làm chủ tịch ủy ban kinh tế của hội đồng này.
Từ người viết báo trở thành nghị sĩ nhờ quan điểm chính trị cấp tiến, P. Doumer bắt đầu có quan hệ chặt chẽ với các tập đoàn tài chính - công nghiệp. Tham gia chính phủ, ông chuyển lập trường sang phía hữu tuy không rời bỏ đảng cấp tiến. Năm 1895, làm bộ trưởng tài chính, P. Doumer ban hành thuế thu nhập. Từ những quan hệ chằng chịt nơi hậu trường, ông rời chính phủ sang Đông Dương làm toàn quyền. Lúc này thực dân Pháp đang lâm vào tình huống cực kỳ khó khăn, đặc biệt tại VN.
Nhiều sứ mệnh
Cuối thế kỷ 19, với việc ép buộc triều đình Huế ký Hiệp ước Giáp Thân 1884, thực dân Pháp về cơ bản coi như áp đặt được chế độ thống trị lên toàn VN, ít lâu sau chiếm gọn Campuchia và Lào. Chúng chia cắt VN thành 3 xứ, gộp với 2 nước láng giềng, hình thành cái gọi là Đông Dương thuộc Pháp cai trị theo 5 chế độ khác nhau.
Từ Nam chí Bắc, các cuộc nổi dậy vũ trang của dân ta khi sôi động, khi âm ỉ không một lúc ngừng. Thực dân Pháp một mặt đàn áp vô cùng dã man, mặt khác lôi kéo, mua chuộc một số người cầm đầu thiếu kiên định, làm cho các phong trào tạm lắng (trừ khởi nghĩa Yên Thế). Tình hình VN tiếp tục bất ổn cho thực dân. Trong khi đó, gánh nặng tài chính ngày một đè lên ngân sách chính quốc tới mức không chịu đựng nổi. Phong trào nhân dân Pháp phản đối các cuộc chiến tranh giành thuộc địa vì vậy càng thêm sôi sục.
Nhà chính khách - chuyên gia tự nguyện giã từ ghế bộ trưởng đi làm một viên chức cấp cao ở thuộc địa nhằm cứu vãn và cải thiện tình hình, P. Doumer có sứ mệnh: Hoàn thành cuộc “bình định” bằng bất cứ giá nào, xây dựng bộ máy cai trị thực dân thay thế chế độ cai trị của triều đình nhà Nguyễn, và để nhanh chóng đẩy mạnh khai thác tài nguyên, bóc lột sức lao động người bản xứ, lấy tiền bù đắp những “hy sinh” của chính quốc nhiều năm trước đó.
Đẩy mạnh hết mức 3 sắc thuế
Có thể nói trừ sứ mệnh đầu tiên khó làm tròn (bởi cho dù tạm thời lắng xuống, chẳng bao giờ ngoại bang có thể “bình định” cuộc chiến đấu chính nghĩa của dân tộc ta), những nhiệm vụ sau quan toàn quyền làm khá tốt.
Với chủ trương tập trung hóa quyền lực, xây dựng bộ máy cai trị thống nhất, ông lập các tổng nha chuyên môn lo việc quản lý ngành dọc toàn cõi Đông Dương. P. Doumer tạo điều kiện thu hút nhân lực đang thất nghiệp ê hề ở chính quốc sang làm việc tại Đông Dương với chế độ cực kỳ ưu đãi, trong khi lại hạn chế đào tạo và sử dụng viên chức người bản xứ, vì “khó tin cậy”.
Việc chia cắt VN được đẩy mạnh cả về danh nghĩa và trên thực tế. Nam Kỳ là thuộc địa. Trung Kỳ là đất bảo hộ - tiếng là do quan lại Nam triều cai trị song viên khâm sứ Pháp rốt cuộc là người quyết định cuối cùng, bởi tên này chủ trì Viện Cơ mật, đứng trên đầu các thượng thư đại thần! Một nhà nghiên cứu Pháp thời ấy đã mỉa mai: “Từ nay, các vị trong Viện Cơ mật của triều đình đều trở thành những con rối bọc trong nhung lụa, vàng son nhưng đều có sợi dây nối với đầu 5 ngón tay điều khiển cực kỳ thành thạo của quan khâm sứ”. Bắc Kỳ theo Hiệp ước Giáp Thân là xứ bảo hộ, song vai trò quan Kinh lược sứ thay mặt nhà vua cai quản vùng đất này, cho dù về hình thức, bị bãi bỏ luôn, thay vào đó là vai trò viên thống sứ Pháp. Hệ thống quan lại người bản xứ ở Bắc Kỳ do thống sứ Pháp toàn quyền bổ nhiệm, thuyên chuyển, nhà vua chẳng có quyền hành gì.
Dưới triều đại P. Doumer, 3 sắc thuế được đẩy mạnh hết mức là thuốc phiện, muối và rượu. Của cải bòn rút từ người dân qua 3 sắc thuế ấy đóng vào ngân sách thuộc địa tăng từ 20 triệu đồng Đông Dương (Đ) năm 1899 lên 33 triệu Đ năm 1902, rồi vọt lên 42 triệu Đ năm 1911. Lợi nhuận của Ngân hàng Đông Dương cũng tăng theo chiều thuận với tăng thuế. Theo một nhà sử học Pháp, “công tích chính của Doumer tại Đông Dương” là tăng thuế. Ở Trung Kỳ, thuế thân và thuế ruộng đất trước ngày ông tới VN nhậm chức mới 83.000 Đ, sau đó vọt lên 2 triệu Đ năm 1899 - năm thứ 2 nhiệm kỳ toàn quyền. Ở Bắc Kỳ, 2 sắc thuế ấy cũng tăng nhanh, đạt gần 5 triệu Đ năm 1907. Trong khi đó, mọi loại thuế má người Pháp làm việc tại Đông Dương phải đóng góp vào ngân sách vỏn vẹn có 9.000 Đ/năm! Ở Nam Bộ, công cuộc khai thác và tập trung hóa ruộng đất đẩy nhanh hết cỡ: Từ 522.000 ha ruộng lúa năm 1880 tăng vọt lên 1.175.000 ha 10 năm sau. Lúa gạo ĐBSCL trở thành nguồn xuất khẩu lớn nhất châu Á.
Trên thực tế, P. Doumer đã tạo dựng cơ sở để khi chiến tranh thế giới nổ ra, nước VN nghèo đói phải oằn mình cho “rồng Nam phun bạc, đánh đổ Đức tặc”, phục vụ chiến thắng của mẫu quốc. Có thể dẫn thêm vô vàn ví dụ, tất cả đều dựa vào tư liệu của các nhà kinh tế học và sử học Pháp.
Công tích và những động cơ ẩn giấu
Trong thời gian hơn 5 năm ở VN, P.Doumer cho xây dựng một số công trình GTVT và công nghiệp. Ông hết sức nồng nhiệt với việc thiết lập đường sắt xuyên Đông Dương và từ Hà Nội vươn dài nối với Côn Minh - Trung Quốc, tới mức báo chí Pháp mỉa mai gọi Doumer và thuộc cấp là “những người theo chủ nghĩa đường sắt”. Toàn quyền Doumer đích thân chỉ đạo quy hoạch, thiết kế và thường xuyên đôn đốc xúc tiến công trình đầy khó khăn kéo dài nhiều năm, mãi tới 1937 mới hoàn thành.
P. Doumer cho mở mang cảng Hải Phòng làm đầu cuối của tuyến đường sắt nối vùng cao Tây Nam Trung Quốc với duyên hải Bắc Bộ VN. Ông cho lập một số nhà máy điện. Dưới nhiệm kỳ ông, Hà Nội trở thành TP đầu tiên ở châu Á được chiếu sáng bằng ánh điện. Ông khuyến khích nhập giống cây cao su miền Nam nước ta, lập nên những đồn điền lớn do người Pháp làm chủ, tạo nguồn hàng xuất khẩu. Ông nhanh chóng đồng tình với kiến nghị của bác sĩ Yersin - người khám phá cao nguyên Langbian, lập TP Đà Lạt...
Nhờ những công tích ở Đông Dương, sự nghiệp chính trị của P. Doumer lên như diều được gió. Trở về Pháp, ông được bầu làm chủ tịch hạ viện, quay lại làm bộ trưởng tài chính một thời gian rồi trở thành chủ tịch thượng viện trước khi được bầu làm tổng thống nước cộng hòa.
Khách quan mà xét, những cấu trúc hạ tầng P. Doumer chủ trương xây dựng tại VN đã góp phần mở mang nước ta về kinh tế, xã hội, văn hóa. Chúng ta ghi công P. Doumer về những gì hữu ích ông để lại đất nước này.
Tuy nhiên, cần đi sâu tìm hiểu đâu mới thực là những động cơ thôi thúc vị viên chức – chính khách P. Doumer năng nổ đến thế. P. Doumer từng là thành viên HĐQT Tổng Công ty Điện lực Pháp CGE. Ông được sự ủng hộ của nhiều tập đoàn công nghiệp và GTVT, trong số này có Tập đoàn Eiffel, mang tên nhà thiết kế và xây dựng tháp Eiffel Paris cùng nhiều công trình khác nổi tiếng thế giới. Dễ thấy tại sao quan toàn quyền quan tâm đến việc mở đường sắt, làm cầu sắt, xây nhà máy điện... tại Đông Dương.
Toàn quyền P. Doumer chấp nhận kiến nghị của bác sĩ Yersin mở TP Đà Lạt là nhằm xây dựng ở nơi khí hậu trong lành một cơ sở nghỉ ngơi cho viên chức, sĩ quan Pháp tại Đông Dương. Càng dễ hiểu tại sao Đà Lạt trước năm 1945 có 2 thời kỳ phát triển rất nhanh, tương ứng với 2 cuộc chiến tranh thế giới, khi các viên chức, sĩ quan Pháp ở Đông Dương không thể ung dung đáp tàu về chính quốc nghỉ phép hằng năm!
Công trình kỳ vĩ
Cầu Long Biên bắc qua sông Hồng xây nhanh tới mức báo chí Pháp đánh giá “đáng kinh ngạc”: 3 năm 9 tháng. Cầu Long Biên trước hết phục vụ vận tải đường sắt.
Dù sao, cầu Long Biên là một công trình kỳ vĩ (trước 1945 là cầu dài nhất Đông Dương), tạo thêm một nét đặc trưng cho thủ đô Hà Nội. Cầu Long Biên là công sức của người thợ VN (ít nhất 3.000 người, theo hồi ký của P. Doumer). Nó đã góp phần vào sự phát triển kinh tế thủ đô và của cả nước. Nó lưu giữ những kỷ niệm vô giá, trước hết là máu và mồ hôi của công nhân cầu đường và ruột gan những người dân VN đóng thuế. Tháng 10-1954, cầu Long Biên chứng kiến những tên lính Pháp cuối cùng sấp mặt đi qua, rút khỏi Hà Nội.Cầu Long Biên ghi khắc những kỳ tích của thủ đô VN trong xây dựng và chiến đấu, đặc biệt thời chống Mỹ. Một di sản đáng được trân trọng, bảo tồn.