Chìa khóa để ASEAN mở cánh cửa tới năng lượng xanh

Đối ngoại - Ngày đăng : 10:50, 12/07/2022

Xây dựng mạng lưới điện carbon thấp trên khắp khu vực có thể giúp ASEAN phát triển kinh tế và nâng cao vị thế quốc tế trong bối cảnh các mối lo ngại toàn cầu ngày càng tăng về biến đổi khí hậu và hạn chế carbon.
Sau Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu, nhiều quốc gia ASEAN đã sửa đổi kế hoạch phát triển điện năng để đưa các mục tiêu đầy tham vọng vào việc khử carbon trong ngành điện. (Nguồn: SEI)
Sau Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu, nhiều quốc gia ASEAN đã sửa đổi kế hoạch phát triển điện năng để đưa các mục tiêu đầy tham vọng vào việc khử carbon trong ngành điện. (Nguồn: SEI)

Trong bối cảnh các mối lo toàn cầu về biến đổi khí hậu và tình trạng hạn chế carbon ngày càng gia tăng, ASEAN đang đứng trước cơ hội hiếm có để thúc đẩy nền kinh tế và cải thiện vị thế quốc tế bằng cách xây dựng một hệ thống điện carbon thấp trong khu vực.

Với nguồn năng lượng mặt trời dồi dào và khả năng sản xuất tiên tiến để lưu trữ năng lượng pin và xe điện, các quốc gia ASEAN có thể trở thành những ứng cử viên hàng đầu để dẫn đầu quá trình chuyển đổi toàn cầu sang năng lượng sạch.

Khởi đầu tốt nhưng chưa đủ

Sau Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu, nhiều quốc gia ASEAN đã sửa đổi kế hoạch phát triển điện năng để đưa các mục tiêu đầy tham vọng vào việc khử carbon trong ngành điện.

Các nước trong khu vực đã cam kết chung tạo ra ít nhất 23% điện năng từ các nguồn tái tạo vào năm 2025. Tiến độ đang diễn ra nhanh chóng, ví dụ như Thái Lan đang phát triển 2,7 GW năng lượng mặt trời nổi và Việt Nam đã phê duyệt hơn 11 GW cho các dự án điện gió mới.

Mặc dù đây là những bước khởi đầu quan trọng, nhưng chúng vẫn chưa đủ để tối đa hóa những lợi ích tiềm năng của quá trình chuyển đổi sang năng lượng tái tạo. Các quốc gia ASEAN sẽ cần phải phối hợp nội khối, sử dụng các biện pháp xây dựng lòng tin cũng như đối thoại để triển khai khử carbon hoàn toàn trong các hệ thống năng lượng của mình.

Chiến lược Trung tâm Năng lượng 4.0 mới của Thái Lan có tiềm năng mở rộng kết nối truyền tải trên khắp Đông Nam Á và tạo thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh điện năng quốc tế carbon thấp và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, việc dự báo chính xác hơn, tăng cường đầu tư, cũng như việc tạo ra các công nghệ mới, là rất quan trọng để tạo ra một lưới điện ASEAN tích hợp hơn.

Một nghiên cứu về khả năng sẵn sàng cho năng lượng tái tạo trên toàn khu vực Đông Nam Á mới đây đã nêu bật những thách thức và cơ hội của việc đạt được sự tích hợp lưới điện năng lượng tái tạo giữa các quốc gia ASEAN.

Để tích hợp điện mặt trời và điện gió trên quy mô lớn, dự báo năng lượng tái tạo tập trung và phân tích dữ liệu đóng vai trò quan trọng, tuy nhiên, nhiều quốc gia thiếu dự báo cần thiết để đảm bảo vận hành lưới điện hiệu quả.

Do khả năng điều động đa dạng từ Lào đến Singapore, cải thiện thị trường và hệ thống là điều cần thiết. Các quốc gia đang nhanh chóng mở rộng công suất của mình, đơn cử như Việt Nam gần đây đã vượt qua Thái Lan, Philippines và Malaysia về tổng công suất lắp đặt năng lượng mặt trời và đạt mục tiêu 18,6 GW cho năm 2030, trước 10 năm so với kế hoạch.

Mặc dù các khoản đầu tư phù hợp với các mục tiêu khử carbon này, nhưng việc đầu tư phối hợp vào các công nghệ như hệ thống lưu trữ, truyền tải, dự báo và tín dụng năng lượng là cần thiết để đưa các công nghệ này vào sử dụng.

Thiếu các cơ sở nghiên cứu siêu máy tính có thể dự báo và tối ưu hóa các hệ thống điện trong tương lai là một trở ngại tại các quốc gia Đông Nam Á.

Phát triển năng lượng tái tạo vẫn vấp phải nhiều rào cản
Diễn đàn phát triển năng lượng xanh, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo trong xu hướng chuyển dịch dòng vốn đầu tư quốc tế vào Việt Nam tháng 4/2021. (Nguồn: TTXVN)

Hợp tác là chìa khóa

Sự chuyển đổi năng lượng có thể được thúc đẩy nhanh chóng thông qua đầu tư, đào tạo và trao đổi kiến thức ở quy mô khu vực và toàn thế giới.

Phát triển một hệ thống chỉ tiêu để nhận diện và xác minh điện carbon thấp có thể giúp phân biệt giữa các nhà máy nhiệt điện than đe dọa môi trường, phát triển đập thủy điện trên dòng chính và các nguồn điện carbon thấp. Ngoài việc giảm chi phí tích hợp và tăng mức tiêu thụ điện tái tạo, hệ thống này còn có thể thiết lập các chỉ tiêu và tiêu chuẩn lưới điện cho các quốc gia.

Giao dịch điện carbon thấp với các quốc gia có nhu cầu lớn hơn là một lựa chọn cho các quốc gia có mạng lưới điện đang phát triển nhưng không đủ cơ sở hạ tầng truyền tải quy mô lớn. Một ví dụ điển hình là Hiệp định thương mại điện gió gió mùa 600 MW giữa Lào và Việt Nam.

Một hệ thống tín dụng phù hợp cũng có thể ngăn cản các dự án gây nguy hiểm đến chất lượng sông và ngăn cản việc sản xuất điện với chi phí thấp nhất từ ​​năng lượng mặt trời và gió tham gia vào các hiệp định thương mại điện đã được thiết lập trước đây.

Cách tiếp cận này có thể tôn vinh các sáng kiến ​​làm giảm lượng khí thải carbon. Ví dụ, thỏa thuận thương mại điện năng 100 MW giữa Lào, Thái Lan, Malaysia và Singapore bắt đầu có hiệu lựa vào năm 2022 thể hiện một mô hình có thể mở rộng để phát triển hơn nữa lưới điện toàn ASEAN trong tương lai, nhưng chỉ xảy ra khi mức giảm carbon được đo lường và xác minh.

Việc xác minh sẽ rất cần thiết để theo dõi lượng phát thải khí nhà kính liên quan đến việc sản xuất hydro xanh nếu hydro xanh trở thành một phần của chiến lược loại bỏ nhiên liệu hóa thạch ở Đông Nam Á.

Điều này có thể hình thành dựa trên các phương pháp đánh giá vòng đời được tiêu chuẩn hóa và các quy trình chứng nhận tương tự như các quy trình được áp dụng để chứng nhận nhiên liệu sinh học về mức độ tương đương với phát thải khí nhà kính.

Hydro xanh có thể đẩy nhanh việc loại bỏ khí tự nhiên được nhập khẩu bởi một số quốc gia ASEAN. Các nước trong khu vực có thể sử dụng điện để phát triển các công nghệ điện phân mới phục vụ nhu cầu năng lượng công nghiệp trong khi ngành điện giảm lượng carbon.

Bằng cách đó, có thể cho phép sản xuất năng lượng nội địa nhiều hơn trong khi xây dựng thêm cơ sở hạ tầng năng lượng tái tạo.

Trong khi việc cấp vốn cho các nhà máy than mới ở Đông Nam Á vẫn chưa có khả năng được triển khai, tình hình kinh tế hiện nay đang buộc các nhà máy nhiệt điện than phải thay thế các nguồn năng lượng tái tạo trên lưới điện. Việc hạn chế sản lượng phát điện từ than hoặc ngừng sử dụng than sớm có thể thúc đẩy các mục tiêu về điện carbon thấp trên toàn khu vực.

Từ quan điểm của quản trị toàn cầu, hợp tác là điều cần thiết để hoàn thành các mục tiêu này. Do vậy, cần có sự phối hợp giữa các ngành để ngăn chặn các thảm họa sinh thái do phụ thuộc vào thủy điện và sự cạn kiệt nguồn nước sau đó.

Xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết để lưu trữ năng lượng pin và sử dụng xe điện có thể thúc đẩy phát triển kinh tế và giải quyết vấn đề việc làm. Tuy nhiên, để xây dựng một mạng lưới điện carbon thấp trên khắp Đông Nam Á, sự phối hợp giữa lưu trữ năng lượng và truyền tải hệ thống là rất quan trọng.

Thủy Tiên