Top 10 ngân hàng thương mại Việt Nam uy tín năm 2022
Tài chính ngân hàng - Ngày đăng : 10:44, 29/06/2022
Danh sách Top 10 Ngân hàng thương mại Việt Nam uy tín năm 2022
Danh sách Top 10 Ngân hàng Thương mại cổ phần tư nhân uy tín năm 2022
Bức tranh toàn cảnh ngành Ngân hàng năm 2021 và triển vọng năm 2022
Dù gặp nhiều tác động tiêu cực từ đại dịch COVID-19, đặc biệt làn sóng dịch lần thứ tư, tuy nhiên, bằng sự chủ động, linh hoạt, ngành Ngân hàng đã đi qua năm 2021 với nhiều điểm sáng nổi bật, tích cực hỗ trợ doanh nghiệp và người dân trong bối cảnh dịch bệnh.
Hình 1: Đánh giá về ngành ngân hàng trong đại dịch
Xác định tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, người dân chịu tác động của đại dịch COVID-19 là nhiệm vụ trọng tâm, thời gian qua ngành Ngân hàng đã triển khai quyết liệt các giải pháp nhằm đáp ứng tốt nhu cầu vốn tín dụng phục vụ sản xuất, kinh doanh như: cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ tại các tổ chức tín dụng); chính sách giảm lãi suất cho vay đối với khách hàng, chương trình cho vay trả lương ngừng việc và trả lương phục hồi sản xuất, các giải pháp về miễn, giảm phí dịch vụ thanh toán... Trên 48% số người khách hàng tham gia khảo sát do Vietnam Report thực hiện tháng 6/2022 cho rằng ngành ngân hàng đã thể hiện vai trò quan trọng trong quá trình phục hồi kinh tế của Việt Nam. Năng lực hoạt động của ngành ngân hàng được nhìn nhận rất tích cực khi 77,7% số khách hàng cho rằng các ngân hàng đã duy trì mức độ dịch vụ khách hàng tốt, và 58,9% cho biết các ngân hàng đã điều chỉnh sản phẩm, dịch vụ phù hợp với thay đổi do đại dịch (Hình 1).
Triển vọng ngành Ngân hàng năm 2022 phụ thuộc rất lớn vào khả năng khống chế dịch bệnh COVID-19, cũng như tốc độ phục hồi của nền kinh tế. Nếu tốc độ phục hồi của nền kinh tế tốt, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế tăng lên, hoạt động cung ứng vốn cho nền kinh tế của hệ thống ngân hàng sẽ được tăng cường, chất lượng tài sản cũng như thu nhập của ngân hàng nhờ đó sẽ tốt hơn. Bước sang năm 2022, những con số tăng trưởng về nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, du lịch, dịch vụ... trong những tháng đầu năm cho thấy, nền kinh tế Việt Nam đang tiếp tục khởi sắc, đưa dự báo tăng trưởng GDP quý II đạt 6% và cả năm trên 7%. Trong bối cảnh đó, khảo sát của Vietnam Report chỉ ra rằng, “bóng đen” của đại dịch đã lùi dần, nhường chỗ cho bức tranh tươi sáng của ngành ngân hàng trong 6 tháng cuối năm 2022. Cụ thể, 63,6% số chuyên gia và ngân hàng dự báo tăng trưởng của ngành cao hơn cùng kỳ năm trước, tăng nhẹ so với mức năm ngoái (58,8%). Khoảng 9,1% số chuyên gia và ngân hàng tỏ ra thận trọng với triển vọng ngành, đáng chú ý, con số này được cho là rất tích cực nếu so sánh với thời điểm đại dịch lan rộng và phủ bóng đen lên hầu khắp các nền kinh tế, khiến cho 76,9% số chuyên gia và ngân hàng lo ngại về suy giảm tăng trưởng (tháng 6/2020).
Hình 2: Triển vọng toàn ngành ngân hàng 6 tháng cuối năm so với cùng kỳ năm trước
Những gam màu sáng trong bức tranh triển vọng ngành ngân hàng đến từ:
Tăng trưởng tín dụng phục hồi mạnh mẽ. Tăng trưởng tín dụng năm 2021 đã trở về mức trước đại dịch (năm 2019), đạt 13,6%. Tín dụng tính đến ngày 09/6/2022 tăng gần 8,2% so với thời điểm đầu năm và 17,1% so với cùng kỳ năm 2021. Phần lớn chuyên gia và ngân hàng tham gia khảo sát của Vietnam Report dự báo tăng trưởng tín dụng cả năm 2022 có thể đạt mức trên 14%, trong đó, cho vay bán lẻ tiếp tục là động lực chính. Theo đánh giá của các chuyên gia, cho vay tiêu dùng ở Việt Nam hiện còn khá khiêm tốn so với các nước trong khu vực, điều này cho thấy dư địa tăng trưởng rất lớn.
Tiền gửi tăng trở lại. Lãi suất huy động huy động neo ở mức thấp, các kênh đầu tư thay thế và thu nhập cá nhân suy giảm đã gây áp lực cho tăng trưởng huy động vốn trong giai đoạn 2020-2021. Tuy nhiên, cuộc đua lãi suất bắt đầu “nóng” khoảng 3 tháng trở lại đây. Tính tới đầu tháng 6/2022, mặt bằng lãi suất tiền gửi đã tăng đáng kể, đã có 10 ngân hàng đưa ra mức lãi suất trên 7%/năm. Lãi suất huy động tăng khiến tiền gửi nhàn rỗi “ồ ạt” quay lại ngân hàng. Khảo sát của Vietnam Report cho thấy 81,8% huy động tiền gửi của các ngân hàng dự phóng sẽ tăng trưởng mạnh trong năm 2022.
Thu nhập ngoài lãi tăng trưởng tốt, chủ yếu đến từ bancassurance. 100% số chuyên gia và ngân hàng tham gia khảo sát của Vietnam Report nhận định, thu nhập từ lãi của các ngân hàng trong thời gian tới sẽ khó khăn hơn bởi chính sách quản trị rủi ro ngày càng nghiêm ngặt. Do đó, thu nhập ngoài lãi sẽ trở thành động lực thúc đẩy lợi nhuận. Trong các khoản thu nhập ngoài lãi, thu nhập từ phí và hoa hồng tăng trưởng ổn định với tốc độ tăng trưởng kép giai đoạn 2018-2021 đạt 28,3% (theo FiinReasearch). Hai nhân tố đóng góp chính vào mức tăng trưởng này chính là doanh thu bancassurance và phí dịch vụ thẻ. Số liệu thống kê cho thấy, khoản phí thu được từ bancassurance trung bình đóng góp khoảng 31% vào tổng thu nhập phí và hoa hồng năm 2021 của các ngân hàng. Do vậy, các chuyên gia kỳ vọng thu nhập ngoài lãi tiếp tục tăng trong ngắn hạn và trung hạn. Ngoài ra, nguồn thu nhập đến từ việc thu hồi nợ xấu đã xóa có thể là một nguồn thu nhập bất thường cho ngành ngân hàng trong thời gian tới.
CIR cải thiện nhờ chuyển đổi số. Nhờ việc số hóa hoạt động, CIR của hầu hết các ngân hàng đã giảm đáng kể trong những năm gần đây. Đại dịch đã góp phần lớn làm gia tăng tốc độ tương tác của khách hàng với các dịch vụ ngân hàng trực tuyến, điều này cuối cùng làm giảm chi phí cố định của ngân hàng. Khảo sát của Vietnam Report cho thấy, trên 54% số ngân hàng dự báo CIR năm 2022 sẽ cải thiện so với năm 2021.
Trong bức tranh toàn cảnh ngành Ngân hàng, bên cạnh những mảng màu sáng như đã phân tích ở trên, những "mảng xám" cũng đã bắt đầu lộ diện một cách rõ ràng hơn ở chất lượng tài sản, khi độ trễ tác động bởi COVID-19 dần rút ngắn.
Rủi ro vỡ nợ chéo từ trái phiếu bất động sản. Trong bối cảnh nguồn vốn tín dụng bị siết chặt từ cuối năm 2019, phát hành trái phiếu đã trở thành một trong những phương thức hiệu quả giúp doanh nghiệp bất động sản huy động nguồn vốn để phát triển dự án. Theo Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam (VBMA), tổng khối lượng phát hành trong quý I/2022 tăng khoảng 18,98% so với cùng kỳ năm 2021, đạt 56.674 tỷ đồng, trong đó, bất động sản được xem là nhóm dẫn đầu với tổng giá trị 28.581 tỷ đồng. Tuy nhiên, thời điểm hiện nay, trái phiếu bất động sản gặp nhiều biến động với hàng loạt các vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật liên quan đến phát hành trái phiếu, huy động tiền của nhà đầu tư. Theo FiinResearch, áp lực trả nợ đối với trái phiếu đáo hạn trong vòng 3 năm tới của các doanh nghiệp bất động sản là rất lớn. Điều này có thể gây ra rủi ro thanh khoản của các đại lý phân phối có cam kết mua lại trái phiếu, đặc biệt là ngân hàng. Một nửa số trái phiếu doanh nghiệp mà các ngân hàng đang nắm giữ là trái phiếu bất động sản. Do đó, các ngân hàng có thể sẽ phải đối mặt với rủi ro vỡ nợ chéo do một lượng lớn trái phiếu bất động sản của các doanh nghiệp chưa niêm yết nằm trong nhóm nợ nghi ngờ.
Nợ xấu gia tăng, tiềm ẩn rủi ro an toàn hệ thống. Thống kê cho thấy, nợ xấu đang có xu hướng tăng khá mạnh. Sức ảnh hưởng của đại dịch lên bảng cân đối kế toán của nhà băng được dự báo sẽ còn tiếp tục kéo dài khi doanh nghiệp chưa thể phục hồi và những khoản nợ sau khi được tạo điều kiện cơ cấu lại đang xếp ở nợ nhóm 1 và 2 nhưng vẫn không thể cải thiện sẽ buộc hệ thống phải chính thức ghi nhận là nợ xấu, đặc biệt là sau khi Thông tư 14 hết hiệu lực vào ngày 30/6/2022. Do triển vọng về nợ xấu gia tăng vào năm 2022 nên từ cuối năm trước, phần lớn các ngân hàng đã tăng tỷ lệ dự phòng rủi ro để giúp cải thiện chất lượng tài sản cũng như “dự phòng” lợi nhuận cho năm nay. Xu hướng này tiếp tục được duy trì khi kết quả khảo sát của Vietnam Report chỉ ra rằng, 45,5% số ngân hàng dự kiến tiếp tục tăng trích lập dự phòng rủi ro, 36,4% số ngân hàng duy trì mức trích lập dự phòng rủi ro như năm trước và chỉ có 18,2% giảm trích lập dự phòng rủi ro. Dù vậy, tốc độ tăng trưởng trích lập dự phòng chưa tương xứng với tốc độ tăng trưởng nợ xấu khiến tỷ lệ trích lập dự phòng bao nợ xấu trung bình giảm nhẹ từ 118% hồi đầu năm xuống còn 112% khi kết thúc quý 1/2022. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu công bố có thể sẽ tăng lên trong nửa cuối năm 2022, sau khi Thông tư 14 sẽ hết hiệu lực. Theo đó, việc tăng nguồn lực dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu của các ngân hàng lại càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Bộ đệm an toàn vốn còn mỏng. Trong bối cảnh phát triển và hội nhập ngày càng sâu rộng, nhóm ngân hàng cần thực hiện các chuẩn mực quốc tế cao hơn như Basel II, Basel III… nhằm nâng cao năng lực quản trị rủi ro và tăng khả năng cạnh tranh với các ngân hàng trong khu vực. Một trong số những chỉ tiêu quan trọng về quản trị rủi ro là tỷ lệ an toàn vốn (CAR). Theo FiinResearch, tỷ lệ CAR của các ngân hàng Việt Nam chỉ ở mức 11,3% trong năm 2021, khá thấp so với các nước trong khu vực, và có dấu hiệu suy giảm trong quý I/2022, một số ngân hàng thương mại nhà nước lớn hầu như không đáp ứng được yêu cầu về an toàn vốn của Basel II. Tỷ lệ CAR giảm một phần là do các tổ chức tín dụng áp dụng Thông tư 41/2016/TT-NHNN tiệm cận Basel II, với yêu cầu tính tài sản có rủi ro chặt chẽ hơn, đồng thời các khoản cho vay chứng khoán, bất động sản… cũng bị áp dụng hệ số rủi ro tín dụng cao hơn. Dù vốn điều lệ của các ngân hàng tăng khá tốt trong năm 2021 thông qua hình thức phát hành cổ phiếu để trả cổ tức, nhưng theo quan sát, tốc độ tăng trưởng đã có dấu hiệu chậm lại. Trong môi trường rủi ro tín dụng và kinh tế có nhiều biến động như hiện nay, áp lực tăng vốn đè nặng nên các ngân hàng ngày một tăng, trở thành một trong những thách thức lớn nhất đối với tăng trưởng trong năm nay của 36,4% số ngân hàng, tăng 8,6% so với năm ngoái (theo khảo sát của Vietnam Report). Theo đó, hơn 54,6% số ngân hàng cho biết tăng vốn điều lệ là nhiệm vụ trọng tâm của năm 2022, tăng đáng kể so với mức 44,4% của năm trước.
Lạm phát – Thách thức hàng đầu đe dọa tăng trưởng ngành ngân hàng trong năm 2022
Có thể thấy rằng, từ bức tranh toàn cảnh với nhiều gam màu sáng – tối đan xen về ngành ngân hàng ở trên, những cơ hội mới đi kèm những rủi ro cũng được phản ánh chân thực. Bên cạnh những yếu tố thuận lợi về môi trường kinh tế- chính trị ổn định, năng lực phục hồi từ sau đại dịch của Việt Nam được đánh giá cao, xếp hạng tín nhiệm ở mức tích cực, vẫn còn đó những thách thức cần vượt qua để vươn lên trong bối cảnh mới. Kết quả khảo sát chuyên gia và ngân hàng của Vietnam Report đã chỉ ra Top 5 thách thức cho tăng trưởng ngành ngân hàng trong năm 2022 bao gồm: (1) Nguy cơ rủi ro lạm phát; (2) Nợ xấu gia tăng, tiềm ẩn rủi ro an toàn hệ thống; (3) Thể chế pháp luật chưa hoàn thiện với các mô hình kinh doanh mới; (4) Sự cạnh tranh trong các dự án chuyển đổi số và đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ; và (5) Rủi ro công nghệ, tội phạm tài chính gia tăng. Phần lớn các rủi ro đều có xu hướng gia tăng so với năm trước, trong đó, rủi ro từ lạm phát lan rộng, trở thành mối lo ngại hàng đầu của của tất cả các chuyên gia và ngân hàng. Điều này xuất phát từ bối cảnh lạm phát tại các nền kinh tế lớn trên thế giới đang ở mức cao kỷ lục buộc các ngân hàng trung ương phải tăng lãi suất. Tại Việt Nam, Chính phủ đã thực hiện tốt việc kiềm chế lạm phát (qua việc quản lý giá đối với nhiều loại hàng hóa và dịch vụ thiết yếu) hơn là theo đuổi chính sách lạm phát mục tiêu. Thời gian qua, Chính phủ đã chủ động chỉ đạo quyết liệt các bộ, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp bình ổn giá, hạn chế những tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, bình quân 5 tháng đầu năm 2022, lạm phát cơ bản tăng 1,1% so với cùng kỳ năm 2021 và thấp hơn mức CPI bình quân chung (tăng 2,25%). Như vậy so với mục tiêu kiềm chế lạm phát dưới 4% thì hiện tại dư địa không còn nhiều.
Trả lời phỏng vấn của Vietnam Report, các chuyên gia đều nhận định rằng, câu chuyện của ngành năm nay chính là câu chuyện về chính sách. Theo số liệu cập nhật của NHNN, tính đến tháng 6/2022, tăng trưởng tín dụng đã đạt 8,15% so với cuối năm 2021. Dù còn cách khá xa so với mục tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm là 14% nhưng nhiều ngân hàng ngay từ hồi cuối tháng 5 đã đồng loạt xin được cấp thêm hạn mức (room) tín dụng. Với tốc độ tăng trưởng lớn, nếu không kiểm soát room tín dụng, áp lực lạm phát sẽ rất lớn, áp lực tăng lãi suất huy động cũng rất cao, dẫn tới lãi suất cho vay và nợ xấu tăng theo. Theo dự báo NHNN có thể sẽ cấp thêm hạn mức tín dụng vào cuối quý III/2022 phụ thuộc vào sức khỏe tài chính của từng ngân hàng. Thêm nữa, chính sách siết tín dụng vào mua bán bất động sản hình thành trong tương lai, hạn chế cho vay mua vàng miếng và đảo nợ… cũng ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của ngành. Có thể thấy rằng, định hướng nắn dòng tiền về sản xuất kinh doanh chưa bao giờ rõ ràng như năm nay.
Chuyển đổi số - Câu chuyện sống còn của các ngân hàng
Năm 2021 vừa qua là một cột mốc quan trọng trong ngành ngân hàng xét về tiến độ số hóa với sự bùng nổ về thanh toán điện tử và việc áp dụng eKYC từ 5/3/2021. Trong điều kiện dịch bệnh bùng phát, mọi hoạt động y tế, an sinh xã hội, sản xuất và cung ứng hàng hóa, giáo dục, tài chính… bắt buộc phải tìm đến các giải pháp chuyển đổi số và thực hiện thông qua các kênh trực tuyến nhằm giảm thiểu những gián đoạn. Sự gia tăng kỳ vọng của khách hàng và bối cảnh cạnh tranh là 2 nhân tố chính thúc đẩy nhu cầu chuyển đổi số mạnh mẽ.
Khảo sát khách hàng của Vietnam Report chỉ ra rằng, để đáp ứng tất cả các nhu cầu của mình, 83,7% số khách hàng từ 24-44 tuổi thường sử dụng dịch vụ của ít nhất 2 ngân hàng khác nhau. Khảo sát cũng chi ra rằng, trong một năm trở lại đây, 9.3% khách hàng đã mở tài khoản ở một ngân hàng mới (khác với ngân hàng họ thường dùng) và gần 7% chuyển sang ngân hàng số (neobank). Điều này cho thấy nhu cầu trải nghiệm của giới trẻ là rất lớn, họ không mong đợi một ngân hàng đáp ứng tất cả nhu cầu của mình mà mong đợi sẽ trải nghiệm tích hợp cao hơn khi kết hợp nhiều nhà cung cấp dịch vụ. Trong số những trải nghiệm kỹ thuật số mà ngân hàng cung cấp, giới trẻ tỏ ra quan tâm hơn cả đối với việc hỗ trợ đối phó với các mối đe dọa an ninh mạng và ưu đãi đặc quyền mua sắm. Những trải nghiệm khác liên quan đến tư vấn, quản lý tài chính cũng được đánh giá ở mức độ hấp dẫn cao (nhiều hơn 3 điểm trên thang điểm 5). (Hình 3)
Hình 3: Đánh giá mức độ hấp dẫn của những trải nghiệm kỹ thuật số mà ngân hàng cung cấp
Tuy nhiên, cần chú ý rằng, vấn đề số hóa có hai mặt. Sự đổi mới và tiện lợi cũng như số hóa các dịch vụ chính xác là những gì khách hàng trẻ tuổi mong muốn và cần. Ngược lại, những khách hàng lớn tuổi hoặc ở nông thôn thì sẽ cảm thấy xa lạ với sự ra đời của ngân hàng kỹ thuật số và sự vắng mặt của con người trong giao dịch. Khảo sát của Vietnam Report cho thấy, trong một năm trở lại đây, mặc dù 58,1% số khách hàng sử dụng ứng dụng mobile banking hàng ngày, 41,9% số khách hàng dụng ATM/autobanking hàng tháng nhưng nhu cầu đến trực tiếp chi nhánh, phòng giao dịch vẫn rất lớn (66,7%), trong đó mục đích chính rút tiền và tư vấn, giải đáp thắc mắc, hỗ trợ thông tin. Kết quả khảo sát của Vietnam Report cũng cho thấy, mô hình ngân hàng truyền thống được khách hàng đánh giá tốt hơn trong việc giữ tiền an toàn và đầu tư bền vững, trong khi các mô hình kỹ thuật số có lợi thế hơn trong việc cung cấp tư vấn tài chính, các dịch vụ cá nhân hóa. (Hình 4)
Hình 4: Nhận định về các tổ chức tài chính
Kỳ vọng của người tiêu dùng đang tăng chóng và để duy trì lợi thế của mình, các nhà băng cần phải xây dựng các mô hình kinh doanh mới có khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng và sự phát triển của thị trường. Họ sẽ cần phải nhanh nhẹn hơn, sáng tạo hơn và đẩy nhanh quá trình chuyển đổi kỹ thuật số. Khảo sát của Vietnam Report chỉ ra rằng, so với năm trước, tỷ lệ ngân hàng triển khai chiến lược chuyển đổi số trên quy mô lớn đã tăng đáng kể, từ mức 58,3% lên 90,1%, những ngân hàng còn lại cũng đã triển khai một phần chiến lược chuyển đổi số. Nhằm hỗ trợ các ngân hàng có thể xây dựng một lộ trình chuyển đổi số phù hợp, khảo sát của Vietnam Report đã chỉ ra mức độ tương quan và ứng dụng trong các hoạt động hiện tại của các ngân hàng. (Hình 5)
Hình 5: Đánh giá mức độ tương quan và ứng dụng một số công nghệ trong hoạt động của ngân hàng
Trong số những công nghệ nói trên, quản trị gian lận được đánh giá có mức độ tương quan đến hoạt động ngành ngân hàng nhiều nhất (4,6/5) và cũng được đầu tư ứng dụng nhiều nhất (4,7/5). Thống kê cho thấy, khoảng 93% gian lận liên quan đến ngân hàng diễn ra trực tuyến. Trong bối cảnh nhiều quốc gia trên thế giới đang dần chuyển sang kinh tế số, các tổ chức chức tài chính bao gồm cả truyền thống và kỹ thuật số đều phải chiến đấu chống lại các cuộc tấn công gian lận phức tạp, luôn thay đổi trong khi vẫn giữ được lợi thế chính của việc chuyển sang kỹ thuật số: trải nghiệm khách hàng thuận tiện, liên tục. Khảo sát cũng cho thấy, mô hình rủi ro nâng cao tuy có mối tương quan khá cao (4,4/5) nhưng mức độ ứng dụng chưa tương xứng trong hoạt động của ngành (3,9/5). Trong bối cảnh kinh tế có nhiều biến động, có lẽ các ngân hàng cần nghiêm túc xem lại việc đầu tư và ứng dụng các công cụ, mô hình quản trị, phân tích rủi ro để đảm bảo an toàn kinh doanh và ngăn chặn tội phạm tài chính.
Theo khảo sát của Vietnam Report, vấn đề bảo mật dữ liệu đang trở thành yếu tố mang tính quyết định đến uy tín ngân hàng, tiếp theo đó là các yếu tố liên quan đến trải nghiệm khách hàng (Hình 6). Khoảng 30% khách hàng quan tâm đến tiêu chí giao dịch an toàn, bảo mật khi lựa chọn sản phẩm dịch vụ của ngân hàng cạnh những tiêu chí hàng đầu như phí dịch vụ cạnh tranh; khả năng đáp ứng nhu cầu nhanh chóng, hiệu quả; và khả năng tiếp cận trong khoảng thời gian phù hợp. Thống kê cho thấy, ngân sách dành cho an toàn thông tin của nhóm ngân hàng chiếm khoảng 10-15% tổng ngân sách công nghệ thông tin. Tình hình COVID-19 căng thẳng đi kèm các vụ tấn công an ninh mạng tăng nhanh vào hệ thống ngân hàng Việt Nam đã thúc đẩy nhanh hơn quá trình chuyển đổi số và an ninh mạng trong hệ thống.
Hình 6: Những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng
Hoạt động ngành ngân hàng qua lăng kính truyền thông: Đổi mới - Cạnh tranh – Trách nhiệm
Kết quả phân tích truyền thông của Vietnam Report chỉ ra những chủ đề xuất hiện nhiều nhất trên truyền thông đối với ngành ngân hàng bao gồm: Sản phẩm, dịch vụ; Cổ phiếu; Tài chính/kết quả kinh doanh; và Hình ảnh/PR/Scandals. Những nhóm chủ đề còn lại có tỷ trọng dưới 10%. Đáng chú ý, lượng thông tin đến nhóm chủ đề Sản phẩm và Nghiên cứu nội bộ tăng đáng kể so với cùng kỳ năm trước, phản ánh mức độ cạnh tranh gay gắt trong việc cung cấp những sản phẩm cá nhân hóa, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng, tương ứng tăng 3,1% và 3,4%. Bên cạnh đó, với vai trò là trụ cột kinh tế, hỗ trợ khách hàng và doanh nghiệp vượt qua khó khăn trong đại dịch và phục hồi sản xuất kinh doanh, lượng thông tin liên quan đến Xã hội/Trách nhiệm xã hội của các ngân hàng cũng tăng gấp 3,6 lần. (Hình 7). Xét về độ đa dạng hình ảnh trên truyền thông, có 55,8% số ngân hàng đạt 10/24 nhóm chủ đề, 41,9% số ngân hàng đạt 15/24 nhóm chủ đề, giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước (tương ứng đạt 88,6% và 74,3%). Điều này phản ánh chiến lược truyền thông của các ngân hàng giai đoạn vừa qua tập trung vào một số nhóm chủ đề nổi bật như trên khi mà mức độ cạnh tranh trong ngành ngày càng khốc liệt, các ngân hàng phải tự đổi mới mình để bắt kịp xu hướng kinh doanh mới, đáp ứng nhu cầu về trải nghiệm của khách hàng ngày một cao hơn để từ đó đảm bảo hài hòa kết quả kinh doanh, quyền lợi của khách hàng, nhà đầu tư và các bên liên quan.
Hình 7: Top 10 chủ đều thu hút truyền thông nhiều nhất
Về chất lượng thông tin, một doanh nghiệp được đánh giá là "an toàn" khi đạt tỷ lệ chênh lệch thông tin tích cực và tiêu cực so với tổng lượng thông tin được mã hóa ở mức 10%, tuy nhiên ngưỡng "tốt nhất" là trên 20%. Điểm sáng trong hoạt động truyền thông ngành ngân hàng năm vừa qua chính là 100% số ngân hàng thương mại nằm trong nghiên cứu của Vietnam Report đạt ngưỡng “an toàn” về chất lượng thông tin, đáng chú ý, có đến 60,5% số ngân hàng đạt được mức “tốt nhất” nói trên, cải thiện vượt trội so với các giai đoạn trước đó. Điều này cho thấy nỗ lực không ngừng trong công tác quản trị truyền thông của các ngân hàng thời gian vừa qua.
Vietnam Report