Đổi mới để phát triển đô thị bền vững trên nền tảng của công nghệ số và chuyển đổi số
Thiên nhiên - Môi trường - Ngày đăng : 18:08, 06/03/2022
1.Hiện nay, hệ thống đô thị nước ta có 862 đô thị các loại, phân bố khá đồng đều trong cả nước, tỷ lệ đô thị hóa đạt gần 40%, kinh tế đô thị đóng góp 70% GDP cả nước, trở thành động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển. Hệ thống đô thị đã tạo cho đất nước ta một diện mạo kiến trúc mới theo hướng văn minh, hiện đại. Đây là kết quả tất yếu của quá trình hơn 100 năm đô thị hóa, đặc biệt là từ sau 30/4/1975, đất nước thống nhất và hơn 30 năm đổi mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang kinh tế thị trường theo định hướng XHXN, có sự quản lý của Nhà nước và mở cửa, hội hập quốc tế dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, thì hệ thống đô thị nước ta cũng bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém, và chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững trong thời kỳ phát triển mới của đất nước khi bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (gọi tắt là công nghiệp 4.0). Công tác lập quy hoạch đô thị chậm đổi mới, thiếu tầm nhìn, chất lượng thấp….
Số lượng đô thị tăng nhưng chất lượng đô thị và môi trường sống chưa được quan tâm đúng mức. Sử dụng đất đô thị, nước sạch còn lãng phí. Hệ thống kỹ thuật và hạ tầng xã hội không đồng bộ và quá tải. Ô nhiễm môi trường ngày càng tăng. Khả năng ứng phó, thích ứng trước biến đổi khí hậu và đại dịch yếu. Sự chênh lệch khoảng cách giàu nghèo trong cư dân đô thị ngày càng xa dẫn đến sự bất bình đẳng trong tiếp cận và hưởng thụ phúc lợi xã hội của Nhà nước. Mâu thuẫn giữa phát triển với việc giữ gìn bảo tồn di sản văn hóa lịch sử đô thị diễn ra gay gắt…
Trình độ năng lực của đội ngũ công chức quản lý đô thị yếu kém…Thực trạng này đã ảnh hưởng và cản trở sự phát triển lâu dài, bền vững của đất nước. Vì thế, đổi mới toàn diện trong phát triển đô thị là yêu cầu cấp thiết được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Và mới đây, Nghị quyết 06 của Bộ Chính trị về “Quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến 2030, tầm nhìn đến 2045” ngày 24/01/2022 đã khẳng định quyết tâm này.
Nước ta đã bắt đầu công nghiệp 4.0 với quyết tâm chính trị mạnh mẽ. Công nghiệp 4.0 mà nền tảng là công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, internet kết nối vạn vật, dữ liệu lớn cho phép chúng ta đổi mới toàn diện hệ thống phát triển đô thị, từ phương pháp luận đến công tác lập quy hoạch, phân loại, nâng cấp đô thị, chọn lựa mô hình phát triển đô thị (đô thị thông minh, đô thị xanh, đô thị sinh thái…) và quản lý đô thị (chính quyền đô thị thông minh, chính quyền đô thị xanh…).
Vì thế, những vấn đề đặt ra như: hệ thống đô thị hiện nay đã phát triển đảm bảo bền vững chưa; phân loại và nâng cấp đô thị theo theo Quyết định 445/QĐ-TTg năm 2009; Quyết định 1659/QĐ-TTg, năm 2012 về Chương trình phát triển đô thị quốc gia(2012-2020) và nhiều văn bản pháp luật có liên quan có cần đổi mới cho phù hợp với phát triển bền vững của quốc gia trong gia đoạn mới không; hệ thống đô thị hiện nay có khả năng chống chịu với thiên tai thảm họa do biến đổi khí hậu và đại dịch gây ra chưa… rất cần được giải đáp thỏa đáng.
2.Từ những năm 70 của thế kỷ XX đến nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã phát triển thành công một số mô hình đô thị phát triển bền vững *, như: đô thị xanh, đô thị sinh thái, đô thị thông minh… Đây là điều kiện thuận lợi để chúng ta tham chiếu, học hỏi kinh nghiệm và vận dụng một cách sáng tạo, có chọn lọc, phù hợp với điều kiện địa chính trị, văn hóa của nước ta trong phát triển đô thị. Ở Việt Nam, hiện có nhiều cách hiểu khác nhau (hoặc chưa đầy đủ) về đô thị xanh, đô thị bền vững, đô thị thông minh… cho dù các khái niệm này rất hay được nhắc đến, thậm chí còn được nhiều doanh nghiệp kinh doanh bất động triệt để lợi dụng để tăng giá trị lợi nhuận cho sản phẩm của mình.
Nhưng tiêu chí thế nào là đô thị xanh, là đô thị thông minh, là đô thị phát triển bền vững thì vẫn chưa được pháp điển hóa trong các quy phạm, tiêu chuẩn xây dựng của Nhà nước. Ngay như khái niệm về “khu đô thị mới” ở nước ta cũng rất không rõ ràng. Hơn 780 khu đô thị mới với hàng ngàn chung cư cao tầng hiện đại được xây dựng ở nước ta kể từ thập niên 90 của thế kỷ trước đến nay, thực tế cũng chỉ là các “khu nhà ở mới”, “là nơi để ngủ”, chứ không phải là đô thị.
Bởi theo Luật Quy hoạch đô thị 2009 (Điều 3) thì “Đô thị là khu vực tập trung dân cư sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hoá hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, một địa phương, bao gồm nội thành, ngoại thành của thành phố; nội thị, ngoại thị của thị xã; thị trấn.”. Vì thế khái niệm này cũng nên được xem xét lại cho phù hợp với luật pháp và điều kiện Việt Nam.
Khi bước vào công nghiệp 4.0, Chính phủ ta đã rất quan tâm đến phát triển đô thị thông minh và bắt đầu triển khai xây dựng mô hình đô thị thông minh (Smart City) trên nền tảng của công nghệ số, gắn kết chặt chẽ với quá trình chuyển đổi số (Digital Transformation), thông qua các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, như: Chương trình chuyển đổi số Quốc gia đến 2025, định hướng đến 2030 của Thủ tướng Chính phủ; Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong đó cũng đặt ra mục tiêu đến năm 2025 có ít nhất 3 đô thị thông minh tại ba vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, phía Nam và miền Trung và đến năm 2030 sẽ hình thành một số chuỗi đô thị thông minh tại các khu vực kinh tế trọng điểm trên, từng bước kết nối với mạng lưới đô thị thông minh trong khu vực và thế giới. Như vậy có thể thấy, xây dựng thành phố, đô thị thông minh không chỉ là xu thế tất yếu mà còn là nhu cầu, bức thiết của các đô thị Việt Nam.
Phát triển đô thị thông minh cũng chính là phát triển đô thị xanh, đô thị bền vững. Bởi để trở thành đô thị thông minh thì đô thị phải đảm bảo 6 thành tố cơ bản, đó là: Chính quyền thông minh (chính quyền điện tử); Cư dân thông minh; Môi trường thông minh; Cuộc sống thông minh; Kinh tế thông minh; Giao thông thông minh. Những thảm họa do thiên tai gây ra như bão,lũ lụt, sạt lở đất làm thiệt hại to lớn về người và kinh tế ở khu vực biển miền Trung những năm qua, đặc biệt là trong hai năm gần đây (2020-2021) cùng với sự bùng phát đại dịch Covid-19 đã làm lộ rõ những yếu kém của hệ thống đô thị, trong đó có cấu trúc không gian đô thị của hai thành phố cực lớn là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
Công nghệ số gắn kết chặt chẽ với chuyển đổi số sẽ góp phần thúc đẩy mạnh mẽ quá trình xây dựng, phát triển thành phố thông minh, giải quyết nhiều bài toán về thu thập, quản lý dữ liệu, giải pháp cho phòng chống thiên tai, đại dịch, quy hoạch, vận hành, quản lý cho các địa phương, đặc biệt trong giai đoạn phục hồi và phát triển.
Thành phố thông minh đang trở thành mô hình phát triển mới của các đô thị trong kỷ nguyên thông minh hóa, giúp các đô thị tối ưu hoá các nguồn lực phát triển bền vững, tiết kiệm đất đô thị, đem lại an toàn, tiện ích hơn cho người dân và phát triển kinh tế xã hội phồn vinh, thịnh vượng. Phát triển đô thị thông minh cũng là xu hướng chung của nhân loại trong thế kỷ XXI.
Cùng với việc triển khai từng bước đưa công nghệ số và chuyển đổi số vào trong quản lý, vận hành đô thị hiện hữu theo mô hình phát triển đô thị thông minh, thì ngay từ bây giờ, cũng cần xem xét, nghiên cứu điều chỉnh lại các quy hoạch đô thị trước đây một cách thận trọng và nghiêm túc bằng tư duy đổi mới và khoa học, áp dụng có chọn lọc các mô hình quy hoạch đô thị tiên tiến trên thế giới, phù hợp với điều kiện của Việt Nam, để đô thị có khả năng thích ứng với thiên tai, đại dịch. Như gần đây, mô hình “Thành phố 15 phút” của Carlos Moreno-Giáo sư Đại học Pantheon Sorbonne (Paris-Pháp) được Quỹ Henrik Frode Obel trao Giải thưởng Obel-2021, một giải thưởng quốc tế danh giá nhằm tôn vinh những đóng góp xuất sắc về quy hoạch đô thị cho sự phát triển của con người trên toàn thế giới.
Với ý tưởng này, mọi nhu cầu thiết yếu của người dân như làm việc, học tập, mua sắm, giải trí, khám chữa bệnh… được giải quyết chỉ trong bán kính tương đương 15 phút đi bộ hoặc đi xe đạp. “Thành phố 15 phút” là một chiến lược phát triển đô thị đầy tham vọng, nhưng cũng là một cách tiếp cận thực dụng mới mẻ, có thể được điều chỉnh cho phù hợp với văn hóa, điều kiện và nhu cầu của từng địa phương, dễ dàng chuyển thành các chương trình và chính sách chính trị giúp chuyển đổi cấu trúc các thành phố.
Đây cũng là mô hình đô thị nhỏ lý tưởng thích ứng với đại dịch và biến đổi khí hậu. Nếu như khi mới ra đời (năm 2016), ý tưởng “Thành phố 15 phút” của Moreno từng bị nhiều quy hoạch gia coi là “không tưởng”, thì nay lại được nhiều quốc gia quan tâm và nó trở nên khả thi hơn nhờ chất xúc tác đặc biệt - đại dịch Covid-19.
Theo các chuyên gia, mô hình “Thành phố 15 phút” sẽ là xu hướng phát triển tất yếu của đô thị trên thế giới trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, tạo điều kiện để con người giảm nhu cầu đi lại và tiếp xúc trực tiếp nhờ các nền tảng giao tiếp và mua sắm trực tuyến. Mô hình này cũng giúp các cư dân chống chọi tốt hơn trước đại dịch Covid-19, vốn làm gián đoạn mọi hoạt động kinh tế, giao thương và giao tiếp xã hội.
Với chúng ta, mô hình này rất phù hợp để cải tạo các khu dân cư hiện hữu ở Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh, có không gian ngõ hẻm chật chội, hạ tầng thiếu thốn, giao thông ngoằn ngèo, chật hẹp chỉ rộng từ 1,5 đến 2 m, lại tập trung đông dân cư với mật độ cư trú rất cao, phần lớn là những người nghèo, tầng lớp yếu thế trong xã hội, khả năng chống chịu trước dịch bệnh, thiên tai kém…
Với cấu trúc như trên, nên không có gì ngạc nhiên là số người bị bệnh và chết do vi rút Covid-19, hay do cháy, nổ gây ra cao hơn rất nhiều nếu so với người sống ở các đường phố trung tâm. Hiện nay, Bộ Xây dựng đang giúp Hà Nội điều chỉnh quy hoạch chung đã được duyệt 2011, đây là cơ hội để xem xét những bất cập tồn tại trong quá trình phát triển vừa qua, đề xuất quy hoạch phát triển Hà Nội bền vững trong thời kỳ mới,thích ứng với biến đổi khí hậu và đại dịch Covid-19. Cấu trúc thành phố với đô thị trung tâm, đô thị vệ tinh, chuỗi đô thị sông Hồng, đô thị thông minh…và ngay cả mô hình“Thành phố 15-20 phút” mà thế giới đang đề cập tới cũng cần được nghiên cứu áp dụng để cải tạo quy hoạch các khu vực ngõ ngách hẻm đông dân cư trong trung tâm thành phố.
3.Cuộc sống luôn vận động, đổi mới, hoàn thiện, thậm chí phải thay đổi để phát triển vì hạnh phúc bền vững của con người. Đó là quy luật. Những thành tựu của đô thị hóa và phát triển đô thị mà chúng ta đã đạt được không phải là bất biến, rồi cũng sẽ trở thành quá khứ, chỉ còn lại những bài học kinh nghiệm để hôm nay soi chiếu vận dụng vào phát triển mới. Vì thế, hơn lúc nào hết, đổi mới toàn diện từ tư duy đến hành động trong phát triển hệ thống đô thị và đô thị hóa theo hướng bền vững, có khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu và đại dịch là yêu cầu cấp thiết đặt ra cho ngành Xây dựng và các bộ ngành có liên quan vì sự phát triển bền vững, lâu dài của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân.
Và phải chăng, đó cũng là quán triệt tinh thần chỉ đạo của Đảng mà Nghị quyết 06 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ./.