Xử lý trường hợp trẻ bị đuối nước ra sao?
Tin Y tế - Ngày đăng : 19:26, 03/11/2021
Nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ em
Theo WHO, trong thập kỉ vừa qua, đuối nước cướp đi sinh mạng của hơn 2,5 triệu người trên toàn cầu. Theo ước tính, mỗi năm có khoảng 236.000 người tử vong do đuối nước và đuối nước là một trong mười nguyên nhân gây tử vong hàng đầu cho trẻ em từ 5 đến 14 tuổi.
Hơn 90% các tai nạn đuối nước xảy ra tại các quốc gia có thu nhập trung bình và thấp. Con số nghiêm trọng này còn chưa bao gồm số người tử vong do tai nạn giao thông đường thủy và thảm họa, thiên tai.
Tại Việt Nam, mặc dù kết quả ban đầu đáng khích lệ với việc giảm trung bình 100 trường hợp trẻ em đuối nước mỗi năm nhưng đuối nước vẫn là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ em. Theo ước tính năm 2020, mỗi năm hiện vẫn còn khoảng 2.000 trẻ em dưới 16 tuổi tử vong do đuối nước.
Hiện nay, nhiều người vẫn xử trí sơ cấp cứu ngạt nước – đuối nước tại hiện trường bằng cách dốc ngược bệnh nhân là một điều rất nguy hiểm, dù không phủ nhận tinh thần nhiệt tình giúp người hoạn nạn..
Theo BS CKII Nguyễn Minh Tiến - phó giám đốc Bệnh viện Nhi đồng thành phố (TP.HCM), tinh thần giúp đỡ người hoạn nạn rất đáng trân trọng, tuy nhiên nếu cấp cứu ngưng tim, ngưng thở không đúng cách rất dễ để lại di chứng tổn thương não.
"Việc dốc ngược một người bị đuối nước ngưng tim, ngưng thở chạy vòng vòng không làm nước trong phổi chảy ra ngoài, ngược lại rất có thể dẫn đến việc rút ngắn thời gian vàng cung cấp oxy cho não, tăng tỉ lệ tử vong và di chứng tổn thương não do thiếu oxy không hồi phục. Có thể làm dịch trong dạ dày trào ra ngoài, tăng nguy cơ hít sặc", BS Tiến khuyến cáo.
Cách sơ cứu đúng cho trẻ bị đuối nước
Theo bác sĩ Tiến, khi phát hiện trường hợp trẻ hay người bị đuối nước cần phải nhanh chóng đưa nạn nhân ra khỏi mặt nước bằng cách đưa cánh tay, cây sào dài cho nạn nhân nắm, ném phao hoặc vớt nạn nhân lên.
- Đặt nạn nhân nằm chổ khô ráo, thoáng khí.
- Nếu nạn nhân bất tỉnh hãy kiểm tra xem nạn nhân còn thở hay không bằng cách quan sát sự di động của lồng ngực:
+ Nếu lồng ngực không di động tức là nạn nhân ngưng thở, hãy tiến hành ấn tim ngoài lồng ngực ở nửa dưới xương ức. Phối hợp ấn tim và thổi ngạt theo tỉ lệ 15/2 (2 cấp cứu viên) hoặc 30/2 (1 cấp cứu viên) trong 2 phút rồi đánh giá lại xem nạn nhân có thở lại được không ? môi có hồng không ? có phản ứng khi lay gọi kích thích đau không ? nếu không và phải tiếp tục các động tác cấp cứu này ngay cả trên đường chuyển nạn nhân tới cơ sở y tế.
+ Nếu nạn nhân còn tự thở, hãy đặt nạn nhân ở tư thế an toàn là nằm nghiêng một bên để chất nôn dễ thoát ra ngoài nếu nạn nhân nôn ói.
- Cởi bỏ quần áo ướt và giữ ấm bằng cách đắp lên người nạn nhân bằng chăn hay một tấm khăn khô
- Nhanh chóng đưa nạn nhân đến cơ sở y tế ngay cả khi nạn nhân có vẻ như bình thường hoặc đã hồi phục hoàn toàn sau sơ cứu vì nguy cơ khó thở thứ phát có thể xảy ra vài giờ sau ngạt nước
Những việc cần tránh
Phần lớn các nạn nhân bị ngạt nước khi đưa đến cấp cứu tại các bệnh viện không được sơ cứu hay sơ cứu không đúng cách dẫn đến tử vong hoặc di chứng não do thiếu oxy. Các sơ cứu không đúng bao gồm:
- Bỏ nhiều thời gian cho việc xốc nước: động tác dốc ngược nạn nhân không cần thiết và không nên thực hiện vì thường lượng nước vào phổi rất ít chứ không phải phổi chứa đầy nước như người dân thường nghĩ. Lượng nước rất ít này sẽ được tống ra ngoài khi nạn nhân tự thở lại. Ngoài ra việc xốc nước còn làm chậm thời gian cấp cứu thổi ngạt và tăng nguy cơ hít sặc.
- Lăn lu: cho trẻ nằm sấp trên cái lu được để rơm nung cháy bên trong lăn lu qua lại nhằm mục đích “rút nước” trong cơ thể trẻ ra. Phương pháp này không hiệu quả, còn gây phỏng cho trẻ.
Các nạn nhân ngưng thở ngưng tim không được cấp cứu thổi ngạt và ấn tim tại nơi xảy ra tai nạn hoặc trong lúc vận chuyển nạn nhân tới cơ sở y tế. Điều này làm cho não và các cơ quan thiếu oxy kéo dài, chết tế bào não dẫn tới tử vong và di chứng não nặng nề. Vì thế tốt nhất là phải cấp cứu thổi ngạt ngay khi đưa đầu nạn nhân lên khỏi mặt nước trước khi đưa vào bờ.
Phòng ngừa đuối nước cho trẻ ra sao?
- Không để trẻ nhỏ một mình ở nhà, đậy kín các vật chứa nước trong nhà
- Không cho trẻ chơi một mình gần ao, hồ, kênh, rạch, sông: luôn có người lớn đi theo
- Không cho bệnh nhân động kinh bơi
- Nên hướng dẫn tập bơi, cho trẻ học bơi
- Nhà trường lưu ý dặn dò học sinh cuối năm nghỉ hè về vấn đề đi bơi, hay chèo thuyền vùng sông nước rất nguy hiểm, không an toàn, cần có sự giám sát.