Khủng hoảng tàu ngầm Pháp-Australia: Được mất thuộc về ai?
Đối ngoại - Ngày đăng : 14:58, 24/09/2021
Pháp vẫn chưa nguôi ngoai vì vụ bị Mỹ “nẫng tay trên” hợp đồng 56 tỷ Euro bán tàu ngầm cho Australia. (Nguồn: Daily Express) |
Cho đến nay, Pháp vẫn chưa nguôi ngoai vì vụ bị Mỹ “nẫng tay trên” hợp đồng 56 tỷ Euro bán tàu ngầm cho Australia, trong khi Canberra ra sức biện minh cho việc đột ngột hủy hợp đồng với Paris.
Nguồn cơn của cuộc “khủng hoảng tàu ngầm” này và được mất, thiệt hơn sau cùng thuộc về ai?
Khủng hoảng niềm tin
Theo Reuters, 5 năm trước, ngày 26/4/2016, ông Le Drian, khi đó là Bộ trưởng Quốc phòng Pháp dưới thời Tổng thống François Hollande, chứng kiến lễ ký kết “hợp đồng thế kỷ”. Tập đoàn đóng tàu Naval Group của Pháp, khi đó mang tên DCNS, qua mặt các đối thủ Đức và Nhật Bản giành được hợp đồng của Bộ Quốc phòng Australia để cung cấp 12 tàu ngầm quy ước Attack.
Đây là phiên bản từ tàu ngầm nguyên tử đời mới Barracuda của Pháp. Trị giá hợp đồng ban đầu là 50 tỷ AUD. Toàn bộ khâu sản xuất dự trù khởi động năm 2023 và các nhà máy đặt tại Australia. Chiếc Attack đầu tiên sẽ được giao vào năm 2030.
Nhưng chỉ 4 tháng sau ngày thông báo Paris và Canberra bước vào giai đoạn “độc quyền đàm phán”, những dấu hiệu khủng hoảng niềm tin đã bắt đầu ló rạng. Tờ The Australian tiết lộ Naval Group bị tin tặc tấn công, mất nhiều “thông tin mật” liên quan đến tàu ngầm lớp Scorpène bán cho Ấn Độ.
Vụ rò rỉ thông tin nói trên không liên quan gì đến hợp đồng với Australia và cũng không nhắm vào những “tài liệu bí mật” như The Austalian loan báo, nhưng cũng đủ khiến Canberra lo ngại.
Dù vậy, điều đó không cấm cản Pháp, Australia tiếp tục hợp tác. Tháng 2/2019, sau 18 tháng đàm phán gay go, Naval Group và Bộ Quốc phòng Australia thông báo “ván đã đóng thuyền”, cho dù nhiều mối nghi kỵ vẫn chưa được xua tan.
Naval Group liên tục bị tin tặc tấn công và chính những đòn tấn công đó là cái cớ để Thủ tướng Morrison thông báo hủy hợp đồng với Pháp.
Không đơn giản chỉ là lý do kinh tế
Theo trang mạng SCMP, có 4 lý dó khiến Australia hủy hợp đồng với Pháp.
Trước hết là vấn đề giá cả khi Canberra trách Tập đoàn Naval Group “đội giá”. Theo thỏa thuận ban đầu, hợp đồng trị giá 50 tỷ AUD, nhưng 18 tháng sau, giá thành lên tới 90 tỷ AUD (khoảng 56 tỷ Euro).
Thứ hai, theo quan điểm của Canberra, Pháp không chơi đẹp khi không chịu chuyển giao công nghệ.
Thứ ba, hợp đồng không có lợi cho người lao động Australia.
Cuối cùng là do có “một sự chậm trễ” trong lịch giao hàng.
Mặc dù truyền thông Pháp ít có bài giải thích về mức chênh lệnh đến 40 tỷ AUD so với hợp đồng ban đầu, nhưng đã lập tức đáp trả báo chí Australia việc chỉ trích Pháp giao hàng trễ, khi mà đôi bên chưa bắt tay vào việc đóng tàu.
Làm thế nào giải thích rằng hợp đồng với Pháp bất lợi cho người lao động Australia, khi mà “hợp đồng thế kỷ” chỉ liên quan đến 500 nhân viên của Naval Group, và gần như toàn bộ khâu sản xuất đều tập trung cả ở Adelaide, trên lãnh thổ Australia?
Ngoài ra, người đứng đầu Naval Group tháng 2/2021 xác nhận, 60% các hoạt động của toàn bộ dự án Attack sẽ do “các tập đoàn của Australia đảm nhiệm”.
Chuyên gia về châu Á thuộc Quỹ Nghiên cứu Chiến lược Antoine Bondaz đánh giá kinh tế không là những giải thích thỏa đáng để hủy hợp đồng. Thực chất khủng hoảng ngoại giao giữa Pháp và liên minh AUKUS “nằm ở chỗ khác”.
Ông Antoine Bondaz cho rằng cần tìm hiểu động lực nào đã thúc đẩy Australia hủy hợp đồng và chuyển hướng sang Mỹ.
Theo vị chuyên gia này, nhu cầu về tàu ngầm của Canberra không thay đổi, chỉ có điểm mới là quyết tâm của chính phủ Australia xích lại gần với Mỹ và đẩy mạnh liên minh với Washington.
"Australia cần tăng cường an ninh, trước mối đe dọa Trung Quốc. Đấy mới chính là cốt lõi của vấn đề chứ không chỉ là một là chuyện liên quan đến hợp đồng mua bán tàu ngầm", ông Antoine Bondaz lập luận.
Tuy nhiên, trong những ngày qua, mọi chú ý lại tập trung vào hồ sơ tàu ngầm, cho dù đây chỉ là một yếu tố trong số rất nhiều những yếu tố khác của liên minh quân sự Anh, Mỹ và Australia.
Thêm một lý do khác cho thấy yếu tố kinh tế chỉ là một phần lý giải cho quyết định chuyển hướng về Mỹ. Ông Bondaz chỉ ra rằng trong nhiều ngày liên tiếp, Thủ tướng Scott Morrison chỉ trích Paris về các khía cạnh chuyển giao công nghệ, giao hàng trễ và hợp đồng với Pháp không tạo nhiều việc làm trên lãnh thổ Australia. Nhưng tới nay, không có gì bảo đảm là Canberra sẽ được toại nguyện trên tất cả những điểm này với nhà cung cấp mới là Mỹ. Cũng không có gì bảo đảm là Mỹ sẽ cung cấp tàu ngầm cho Australia sớm hơn. Canberra cũng không được bảo đảm là những hợp đồng mới với Mỹ có lợi hơn cho người lao động Australia.
"Rõ ràng, ở đây, những lập luận ‘được’ hay ‘thua’ về mặt kinh tế không phải là cốt lõi của vấn đề. Đây cũng không hẳn là một cuộc tranh cãi để lấy phiếu của cử tri trong nước. Liên minh với Anh, Mỹ thuần túy là một vấn đề an ninh và chiến lược. Australia thể hiện rõ ràng quyết tâm càng neo chặt vào Mỹ và đây là mối liên minh chặt chẽ hơn trước rất nhiều”, ông Bondaz nhấn mạnh.
Tổng thống Pháp Emmanuel Macron gặp gỡ thủy thủ đoàn tàu ngầm tại lễ hạ thủy chính thức tàu ngầm hạt nhân mới của Pháp ở Cherbourg, ngày 12//2019. (Nguồn: Getty) |
Hiện Pháp là 1 trong 6 quốc gia trên thế giới có tàu ngầm nguyên tử, làm chủ công nghệ đóng tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân. Do đó, đối với Naval Group, cung cấp tàu ngầm nguyên tử cho Australia không phải là điều bất khả thi.
Vấn đề còn lại là công luận Australia không mặn mà với năng lượng hạt nhân và Canberra từ khi bắt đầu đàm phán trang bị tàu ngầm đã nhắm tới lớp Barracuda, nhưng dùng năng lượng điện và diesel và do đó sản phẩm sẽ là 12 chiếc Attack.
Chuyên gia Bondaz lưu ý rằng tình thế đã đảo ngược khi Mỹ lần đầu tiên từ năm 1958 đồng ý chia sẻ một phần công nghệ tàu ngầm chạy bằng năng lượng nguyên tử. Anh là quốc gia duy nhất hưởng ưu đãi đó. Cần nhấn mạnh rằng, với Pháp, Australia chưa từng đề cập đến nhu cầu trang bị tàu ngầm nguyên tử.
Khi đôi bên bắt đầu đàm phán vào năm 2014, Canberra nhắm vào tàu ngầm quy ước của Pháp và do vậy, chính Paris đã phải điều chỉnh lớp tàu nguyên tử đời mới thành tàu ngầm chạy bằng dầu diesel để đáp ứng đòi hỏi của Australia.
Thêm vào đó, chưa chắc Australia đã có lợi trong hợp đồng với Mỹ, nếu chỉ đơn thuần dựa vào các yếu tố kinh tế. Chuyên gia Pháp Jean Pierre Maulny, Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược IRIS, ghi nhận hãy còn vô vàn trở ngại mà Canberra sẽ phải vượt qua từ nay cho tới khi nhận được những chiếc tàu ngầm nguyên tử đầu tiên “Made in USA”.
Trở ngại đầu tiên là phải giải quyết vấn đề năng lượng hạt nhân. Kế tiếp là các loại tàu ngầm đang hiện hành ở Anh và Mỹ có trọng lượng 7.000 tấn, trong lúc đó thì Australia cần loại tàu cỡ nhỏ hơn - dưới 5.000 tấn, giá thành của Anh, Mỹ, sẽ không thấp hơn so với của Pháp.
Sau cùng, không có gì bảo đảm là chuyển hướng sang Mỹ và Anh, Australia sớm có thể thay thế những chiếc tàu ngầm cũ lớp Collins.
Nói tóm lại, tất cả những lập luận về kinh tế được Canberra đưa ra để biện minh cho việc hủy hợp đồng với Pháp không mấy thuyết phục.
Hệ lụy đến đâu?
Về phía Pháp, trong khi báo chí nói nhiều đến cuộc “khủng hoảng tàu ngầm”, nhưng giới phân tích đồng loạt cho rằng, vụ bị mất hợp đồng với Australia chỉ là “bề nổi của tảng băng”.
Mặc dù bị khách hàng Australia “bỏ bom” là một mất mát cả về tài chính lẫn uy tín đối với Tập đoàn đóng tàu Naval Group, nhưng sự tồn tại của gã khổng lồ trong ngành đóng tàu và công nghiệp quân sự này của Pháp không hề bị đe dọa.
Giới trong ngành đánh giá rằng hậu quả về mặt công nghiệp đối với phía Pháp không nhiều, bởi dự án chỉ mới ở giai đoạn đầu. Công ăn việc làm của nhân viên Naval Group cũng không bị ảnh hưởng, bởi dự án với Australia chỉ liên quan tới 500 trong số 16.000 nhân viên hiện diện tại 18 quốc gia trên thế giới.
Hơn nữa, cho dù hợp đồng có bị hủy giữa chừng, đôi bên đều dự phòng để đối phó với tình huống này và đã dự trù những khoản đền bù thiệt hại.
Tàu ngầm Attack của Pháp. (Nguồn: Forbes) |
Nhà nghiên cứu Céline Pajon, Viện Quan hệ Quốc tế Pháp (IFRI), giải thích rằng hợp đồng tàu ngầm Pháp-Australia rất phức tạp.
Năm 2016, Australia đồng ý mua 12 tàu ngầm Attack. Ba năm sau đó, Paris và Canberra ký một hợp đồng thứ hai mang tính “đối tác chiến lược”, là nền tảng cho hợp tác song phương trong giai đoạn 50 năm sau đó.
Chính văn bản này cho phép nước Pháp “hoạch định chiến lược lâu dài tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương”. Các nhà địa chính trị của Pháp giải thích rõ hơn rằng trong một thế giới càng lúc càng bị chia rẽ giữa một bên là Trung Quốc và bên kia là Mỹ, Pháp từ lâu nay luôn chủ trương một hướng đi thứ ba độc lập cả về mặt chính trị, kinh tế, chiến lược và công nghệ với Bắc Kinh và Washington.
Canberra là một trong những đối tác có trọng lượng và Paris đã dùng lá bài “tàu ngầm” để thuyết phục Australia thiên về giải pháp “độc lập” đó với Mỹ và Trung Quốc. Tuy nhiên, Hiệp định Đối tác tăng cường an ninh ba bên giữa Australia, Anh và Mỹ (AUKUS) là một gáo nước lạnh mà Mỹ lẫn Australia dội vào sáng kiến “giải pháp thứ ba” đó của Paris.
Theo chuyên gia Bondaz, quyền lợi của Pháp trong vùng Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương không thay đổi, được hay mất hợp đồng tàu ngầm không làm thay đổi cục diện về mặt địa lý.
Một số nhà phân tích khác lo ngại việc Australia hủy hợp đồng quân sự với Pháp tạo tiền đề cho các các quốc gia khác noi theo. Pháp là một trong 5 nguồn cung cấp vũ khí hàng đầu thế giới. Liên minh AUKUS cho thấy không dễ cưỡng lại những áp lực của Mỹ. Ấn Độ là khách hàng mua chiến đấu cơ Rafale của Pháp, đồng thời là một trong bốn thành viên của nhóm Bộ tứ.
Tại châu Âu, Giám đốc đặc trách về nghiên cứu an ninh của Viện Quan hệ quốc tế Pháp Elie Tenenbaum không loại trừ khả năng một số thành viên, mà đứng đầu là Đức, cũng có thể quay lưng lại với Pháp để mua vũ khí của Mỹ, bởi “Đức và Pháp tuy là hai đầu tàu kinh tế của EU, nhưng về mặt quốc phòng Berlin thân thiết hơn với Washington”.
Một dự án hợp tác chung chế tạo chiến đấu cơ SCAF thế hệ 6 giữa Pháp, Đức và Tây Ban Nha, với trọng tâm là tập đoàn Dassault, cũng có thể bị lung lay.
Sau cùng, Paris lo sợ AUKUS là hồi chuông báo tử cho hàng loạt những thỏa thuận Anh-Pháp trong lĩnh vực an ninh và quốc phòng trong khuôn khổ hiệp định Landcaster House 2010, bao gồm từ các dự án phát triển công nghệ chế tạo tên lửa chung, đến các chiến dịch tăng cường an ninh mạng.