“Giải mã” tuyên bố của Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị về Biển Đông

Đối ngoại - Ngày đăng : 11:01, 13/08/2021

Ngày 4/8/2021, tại Hội nghị thượng đỉnh Bộ trưởng Ngoại giao Đông Á lần thứ 11, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị, đã kêu gọi tất cả các bên cần hành xử theo phương châm “4 tôn trọng” đối với vấn đề Biển Đông và yêu cầu các lực lượng ngoài khu vực phải chấm dứt can thiệp vào Biển Đông.

Nguyên tắc chiếm hữu thật sự trong quyền thụ đắc lãnh thổ

Tôn trọng đầu tiên được ông Vương Nghị trình bày là tôn trọng “sự thật lịch sử”. Thực tế Trung Quốc đã dùng vũ lực để xâm chiếm và tạo ra tình trạng tranh chấp chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Để biện minh cho sự xâm chiếm bằng vũ lực đó, phía Trung Quốc lập luận rằng Trung Quốc có “chủ quyền lịch sử” đối với quần đảo “Tây Sa” và quần đảo “Nam Sa” (tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam).

Tuy nhiên, khi xem xét giải quyết tranh chấp về quyền thụ đắc lãnh thổ đối với một vùng lãnh thổ nào đó, thực tiễn quốc tế phải dựa vào nguyên tắc pháp lý đương thời. Đó là nguyên tắc chiếm hữu thật sự.

Theo đó, các phương thức thụ đắc lãnh thổ, mà nội hàm của nó bao gồm: Việc xác lập chủ quyền lãnh thổ phải do Nhà nước tiến hành; Sự chiếm hữu phải được tiến hành một cách hòa bình trên một vùng lãnh thổ vô chủ (res nullius) hoặc là trên một vùng lãnh thổ đã bị từ bỏ bởi một quốc gia đã làm chủ nó trước đó (derelicto); Việc sử dụng vũ lực để xâm chiếm là hành động phi pháp; Quốc gia chiếm hữu phải thực thi chủ quyền của mình ở những mức độ cần thiết, tối thiểu thích hợp với các điều kiện tự nhiên và dân cư trên vùng lãnh thổ đó; Việc thực thi chủ quyền phải liên tục, hòa bình.

“Giải mã” tuyên bố của Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị về Biển Đông
Tượng đài Hải đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải

Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội Luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu kết luận: “…người Trung Quốc cách đây khá lâu đã biết ở Biển Đông có nhiều đảo mọc rải rác, nhưng điều đó không đủ làm cơ sở pháp lý để bảo vệ cho lập luận rằng, Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện, khám phá, khai thác và quản lý hai quần đảo này…” (Monique Chemillier Gendreau, “Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”, nhà xuất bản L’Harmattan Paris (Pháp) công bố tháng 3/1996, đã được dịch giả Nguyễn Hồng Thao dịch sang tiếng Việt, các ông Lưu Văn Lợi và Lê Minh Nghĩa hiệu đính, nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật giới thiệu năm 1998 và tái bản năm 2011) .

Tòa án Trọng tài Thường trực Quốc tế The Hague vào tháng 4/1928 đã vận dụng nguyên tắc chiếm hữu thật sự để xử vụ tranh chấp đảo Palmas giữa Mỹ và Hà Lan; phán quyết của Tòa án Quốc tế của Liên hợp quốc vào tháng 11/1953 đối với vụ tranh chấp chủ quyền giữa Anh và Pháp về các đảo Minquiers và Ecrehous… Gần đây hơn, Tòa án Công lý Quốc tế đã quyết định cho Malaysia thắng trong vụ kiện với Indonesia vào tháng 12/2002 về chủ quyền đối với đảo Pulau Ligitan và đảo Pulau Sipadan, vì tòa nhận thấy rằng Malaysia đã thực hiện một cách thường xuyên một loạt các hoạt động của nhà nước.

Như vậy, có thể thấy rằng, lập trường của Trung Quốc về cái giọ là “chủ quyền lịch sử” là không phù hợp với nguyên tắc pháp lý đương thời, nếu không muốn nói đó là quan điểm rất nguy hại, gây bất ổn cho sự tồn tại hiện thời, hợp pháp của các quốc gia trên thế giới.

Đánh tráo khái niệm trong “sự thật lịch sử”

Bản thân những “sự thật lịch sử” mà ông Vương Nghị trích dẫn để minh chứng cho quan điểm của mình, đáng tiếc là không đúng với nội dung vốn có của chúng.

Ông Vương Nghị đã tuyên bố: “Chính phủ Trung Quốc đã thu hồi thẩm quyền đối với quần đảo Nam Sa bị Nhật chiếm đóng trái phép theo Tuyên cáo Cairo và Tuyên bố Potsdam”, chúng tôi xin trình bày tóm tắt sự thật nội dung của 2 văn kiện quốc tế này:

Ngày 27 tháng 11 năm 1943, Hội nghị Cairo ra Tuyên cáo Cairo buộc Nhật Bản phải trả lại cho Trung Hoa Dân Quốc tất cả các phần lãnh thổ mà Nhật Bản đã chiếm của Trung Quốc bao gồm Mãn Châu, Đài Loan và quần đảo Bành Hồ. Tuyên cáo Cairo hoàn toàn không đề cập đến việc Nhật Bản phải bàn giao hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Chỉ 3 ngày sau, tại Hội nghị Tehran, Joseph Stalin tán thành việc trao trả Mãn Châu, Đài Loan, Bành Hồ cho Trung Hoa Dân Quốc, mà không hề nhắc đến việc bàn giao các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cho nước này.

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương, quân đội Nhật Bản thay thế quân đội Pháp đồn trú ở trên các quần đảo giữa Biển Đông. Từ ngày 26 tháng 7 đến ngày 2 tháng 8 năm 1945, Hội nghị Potsdam buộc Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện phe Đồng minh và gián tiếp ấn định thể thức giải giáp quân đội Nhật Bản ở Thái Bình Dương, lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới, trong đó phía Nam vĩ tuyến 16 (có quần đảo Trường Sa) do quân đội Anh và phía Bắc có vĩ tuyến 16 (có quần đảo Hoàng Sa) do quân đội Trung Hoa Dân Quốc thực hiện. Đây chỉ là hành vi giải giáp quân sự được Đồng minh ủy quyền, chứ hoàn toàn không phải là quy thuộc hay thực thi chủ quyền của bất cứ một quốc gia nào.

Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật Bản đầu hàng phe Đồng minh và bắt đầu rút quân khỏi Đông Dương. Tuy nhiên, quân Nhật vẫn duy trì sự chiếm đóng của mình trên quần đảo Hoàng Sa cho đến năm 1946.

“Giải mã” tuyên bố của Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị về Biển Đông
Lễ chào cờ tại Trường Sa

Sau khi Nhật tuyên bố đầu hàng quân Đồng minh không điều kiện vào tháng 8 năm 1945, chính quyền Pháp tại Đông Dương đã khôi phục lại sự có mặt của họ trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Sự có mặt này đã từng bị gián đoạn từ ngày 9 tháng 3 năm 1945 do cuộc can thiệp quân sự của Nhật.

Ngay từ tháng 1 năm 1946, Pháp đã xúc tiến hàng loạt các hoạt động nhằm khẳng định quần đảo này thuộc lãnh thổ Việt Nam, trong bối cảnh quân đội Quốc Dân Đảng, theo những hiệp định đã ký kết, có nhiệm vụ giải giáp quân Nhật ở đây. Tháng 3 năm 1946, Pháp đã thực hiện một chuyến viếng thăm quần đảo nhằm tái xác lập chủ quyền lãnh thổ và chuẩn bị cho đổ bộ để chiếm lại đảo. Cuối năm 1946, chính phủ Trung Quốc phái lực lượng hải quân của họ tới đảo Itu Aba (đảo Ba Bình) sau khi tàu Pháp Chevreuil đã đặt một bia chủ quyền của Pháp tại đó. Ngày 7/1/1947, quân Trung Hoa Dân quốc đổ bộ lên đảo Phú Lâm (thuộc quần đảo Hoàng Sa).

Học giả Lý Lệnh Hoa, một nhà nghiên cứu về Luật Biển, cựu thành viên Trung tâm Tin tức Hải dương quốc gia Trung Quốc, đã có hàng loạt lập luận thẳng thắn phản bác lại quan điểm của chính những quan chức nước này: “…chứng cứ (lịch sử) đó có ý nghĩa ngày càng nhỏ trong luật quốc tế hiện đại…, chứng cứ thật sự có sức thuyết phục chính là sự kiểm soát thực sự. Anh nói chỗ đó của anh, vậy anh đã từng quản lý nó chưa, người ở đó có phục tùng sự quản lý của anh không, có phải người khác không có ý kiến gì không? Nếu đáp án của những câu hỏi này đều là “có” thì anh thắng là điều chắc. Ở Nam Sa, chúng ta không có được điều đó…”

Sau khi chính phủ Nhật đầu hàng, hải quân Nhật đã rời các đảo này sau khi đã phá hủy tất cả các công trình xây dựng và các cảng tại đó. Ngày 8/1/1947, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Hoa Dân quốc đã tuyên bố trong một cuộc họp báo rằng chính phủ Trung Quốc đã lấy lại các đảo Hoàng Sa và khôi phục lại chủ quyền của họ trên các đảo này. Điều này đã gây ra các phản ứng từ phía Pháp. Ngay sau khi ra phản đối ngày 13/1/1947 về việc người Trung Quốc chiếm hữu trái phép quần đảo Hoàng Sa. Ngày 17/1/1947, chính phủ Pháp đã phái tàu Tonkinois ra quần đảo. Một phân đội đã được đổ bộ lên đảo Hoàng Sa (gồm 2 sĩ quan, 10 lính Pháp và 17 lính Việt) để lập một đồn binh và xây dựng lại các trạm khí tượng và trạm vô tuyến điện (TSF). Cũng từ ngày này, Tổ chức Khí tượng Thế giới công nhận các trạm khí tượng do Pháp xây dựng trên quần đảo dưới số đăng ký 48859 và 48860, các trạm này cung cấp các số liệu khí tượng cho toàn thế giới trong vòng 26 năm cho đến khi bị Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chiếm đóng quân sự vào năm 1974.

Như vậy, từ thực tế nói trên, có thể khẳng định rằng, “sự thật lịch sử” có liên quan đến nội dung của 2 văn kiện pháp lý quốc tế mà ông Vương Nghị đề cập trong phát biểu của mình chỉ là một cách viện dẫn cưỡng ép có chủ ý và đó không thể là sự thật lịch sử.

(Còn nữa)

TS Trần Công Trục