Nga, Mỹ với các vấn đề Biển Đông

Đối ngoại - Ngày đăng : 09:11, 05/07/2021

Mối quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc đang ở mức thấp nhất trong nhiều thập niên và Biển Đông được xem là tượng trưng cho sự cạnh tranh ảnh hưởng rộng lớn hơn giữa hai nền kinh tế hàng đầu thế giới. Trong khi đó, các chuyên gia Nga cho rằng, phán quyết của Tòa án Trọng tài Thường trực (PCA) ở The Hague (Hà Lan) vào 7/2016 đã trở thành cột mốc quan trọng trong lịch sử tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và luật pháp quốc tế có vai trò tối thượng trong giải quyết các tranh chấp này.

Chuyên gia Nga: Các yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông là trái với UNCLOS-1982

Nhận định trên được đưa ra trong bài viết với nhan đề 5 năm phán quyết Toà trọng tài về Biển Đông: Nơi giao thoa của địa chính trị và luật pháp quốc tế” của hai Tiến sỹ Alexander Korolev và Irina Strelnikova thuộc Trường Kinh tế cao cấp (Nga), đăng trên trang tin của Hội đồng Nga về các vấn đề quốc tế (RIAC) ngày 1/7.

Nga, Mỹ với các vấn đề Biển ĐôngTàu Trung Quốc bị phát hiện ở Đá Ba Đầu thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam ngày 22/3. Các chuyên gia Nga cho rằng, các yêu sách của Bắc Kinh ở Biển Đông là trái với UNCLOS-1982. 

Các tác giả trích dẫn phán quyết của Toà trọng tài cho rằng, các yêu sách của Trung Quốc đối với "quyền lịch sử" và quyền tài phán của nước này đối với các khu vực biển ở Biển Đông là trái với Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS-1982) và vượt quá ranh giới địa lý và thực chất các quyền của Trung Quốc.

Bài phân tích khẳng định, các lý lẽ Trung Quốc sử dụng không được phản ánh trong các quy tắc của luật pháp quốc tế và do đó, không thể được coi là lý do bào chữa cho việc không thi hành quyết định của Tòa trọng tài.

Các tác giả nhấn mạnh vai trò của luật pháp quốc tế trong giải quyết tranh chấp giữa các bên ở Biển Đông, khẳng định, UNCLOS có tính ràng buộc pháp lý cao nhất đối với tất cả các bên ký kết, cũng như vai trò của phán quyết mà Tòa trọng tài đã đưa ra 5 năm trước.

Theo các chuyên gia Nga, UNCLOS là nguồn luật thay thế bất kỳ quyền lịch sử hoặc các quyền chủ quyền hoặc quyền tài phán nào mà Trung Quốc vận dụng trong giải quyết vấn đề tranh chấp ở Biển Đông.

Các học giả Nga cũng đánh giá cao việc các nước ASEAN đang tích cực thảo luận về sự cần thiết phải thay thế Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông năm 2002 (DOC) vốn đã lỗi thời bằng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) - một công cụ có tính ràng buộc về mặt pháp lý, từ đó đóng vai trò nền tảng trong việc quản lý tranh chấp ở Biển Đông.

Tổng thống mới của Mỹ với thách thức cũ ở Biển Đông

Tác giả Connie Foong phân tích trên tờ The Christian Science Monitor về sự liên quan của Mỹ ở Biển Đông và dự báo chiều hướng chính sách của nước này trong bối cảnh Trung Quốc gia tăng sự quyết đoán ở Biển Đông.

Nga, Mỹ với các vấn đề Biển ĐôngTàu của Trung Quốc tập kết tại Đá Ba Đầu, tháng 3/2021. 

Kể từ khi lên nắm quyền, chính quyền Tổng thống Biden đã thực hiện một trong những ưu tiên hàng đầu là tăng cường quan hệ với châu Á - một phần là để chống lại đối thủ hàng đầu Trung Quốc.

Ưu tiên đó sẽ được thử nghiệm ở Biển Đông, nơi các tranh chấp lãnh thổ đã diễn ra từ lâu giữa Trung Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam. Bắc Kinh đòi hỏi chủ quyền toàn bộ vùng biển trải dài trên hơn 1 triệu dặm vuông và mở rộng sự hiện diện quân sự bằng cách cải tạo các đảo nhỏ và đá ngầm thành đường băng.

Căng thẳng ở Biển Đông gia tăng kể từ tháng 3, khi hơn 200 tàu Trung Quốc neo đậu ở Đá Ba Đầu (tại cụm đảo Sinh Tồn trên quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam).

Trong bài phát biểu đầu tiên trước Quốc hội, Tổng thống Joe Biden cho biết ông đã nói với nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình rằng Mỹ có ý định duy trì sự hiện diện quân sự mạnh mẽ ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, “không phải để khơi mào xung đột mà để ngăn chặn một cuộc xung đột”. Tuy nhiên, ranh giới giữa hai điều này được xem rất mong mang trong khu vực luôn căng thẳng này.

Đòi hỏi phi pháp

Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) quy định các quyền và trách nhiệm của các quốc gia đối với các đại dương trên thế giới. Công ước đã thiết lập khái niệm về các vùng đặc quyền kinh tế: khu vực trải dài 200 hải lý tính từ đường bờ biển của một quốc gia, nơi quốc gia đó có các quyền đặc biệt để khai thác tài nguyên. Khi các vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia chồng lấn lên nhau, theo UNCLOS, các quốc gia cần phải đàm phán để thống nhất.

Ann Marie Murphy, giáo sư tại Đại học Seton Hall, chuyên gia về an ninh ở Đông Nam Á, cho biết: “UNCLOS được cho là giải pháp ngăn chặn xung đột bằng cách quy định rõ ràng về việc ai có quyền khai thác tài nguyên trong vùng đặc quyền kinh tế đó".

Tuy vậy, theo James Chin, Giám đốc Viện châu Á tại Đại học Tasmania, Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trong “đường chín đoạn”, kéo dài từ Đài Loan đến Malaysia - một ranh giới được xác định mơ hồ dựa trên các bản đồ cũ.

Ann Marie Murphy, giáo sư tại Đại học Seton Hall, chuyên gia về an ninh ở Đông Nam Á: “UNCLOS được cho là giải pháp ngăn chặn xung đột bằng cách quy định rõ ràng về việc ai có quyền khai thác tài nguyên trong vùng đặc quyền kinh tế đó".

Vào năm 2016, Tòa án trọng tài quốc tế tại The Hague đưa ra phán quyết rằng không có cơ sở pháp lý nào cho một tuyên bố về quyền lịch sử đối với những tài nguyên biển trong "đường chín đoạn".

Trung Quốc bác bỏ phán quyết trên. Các nước khác tiếp tục lên tiếng về các tàu Trung Quốc hoạt động trong vùng biển của họ.

Sự liên quan của Mỹ

Biển Đông có trữ lượng dầu mỏ và khí đốt tự nhiên khổng lồ và khoảng một phần ba thương mại hàng hải toàn cầu đi qua Biển Đông, trị giá hơn 3 nghìn tỷ USD mỗi năm.

Washington coi việc di chuyển tự do trong khu vực là điều cần thiết và tiến hành các cuộc tuần tra hải quân “tự do hàng hải” để thể hiện quyền này.

Giáo sư Murphy nói: “Từ quan điểm của Mỹ, bản đồ đường chín đoạn là một nỗ lực (của Trung Quốc) nhằm sở hữu các tài sản chung toàn cầu”.

Các quan chức Mỹ coi hành vi của Trung Quốc là một thách thức đối với pháp quyền. Washington cũng củng cố quan hệ với các đồng minh quan trọng ở Đông Nam Á, trong đó có mục tiêu hạn chế sự thống trị ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực.

Bước phát triển tiếp theo

Nhiều nền kinh tế khu vực đang loay hoay trong đại dịch. Trong khi đó, Trung Quốc đang đẩy mạnh việc xây dựng thêm các đảo nhân tạo và căn cứ quân sự.

Ông Joshua Kurlantzick thuộc Hội đồng Quan hệ đối ngoại Mỹ cho biết: “Điều này có lẽ đã khiến nhiều quốc gia trong khu vực tức giận bởi vì điều đó cho thấy Trung Quốc có vẻ như không chỉ tiếp tục theo cách tiếp cận rất quyết đoán, mà còn đang thực sự lợi dụng những lỗ hổng của họ”.

Cho đến nay, chính quyền Tổng thống Biden vẫn duy trì quan điểm cứng rắn của người tiền nhiệm Donald Trump đối với Trung Quốc và tiếp tục tiến hành các hoạt động tự do hàng hải.

Ông Biden cũng đã gây áp lực buộc các nền dân chủ khác phải có lập trường mạnh mẽ hơn với Bắc Kinh.

Cho đến nay, chính quyền Tổng thống Biden vẫn duy trì quan điểm cứng rắn của người tiền nhiệm Donald Trump đối với Trung Quốc và tiếp tục tiến hành các hoạt động tự do hàng hải.

Nhưng ở Biển Đông, một Đông Nam Á thống nhất sẽ “có cơ hội tốt hơn việc Mỹ và Trung Quốc ngồi xuống và cố gắng giải quyết vấn đề đó”, ông Kurlantzick nói.

Gần đây, một số quốc gia đã thực hiện các bước đi nhỏ để đàm phán về những lợi ích tại các vùng biển chồng lấn.

Vào tháng 4, Malaysia và Brunei đã đồng ý cùng nhau phát triển các mỏ dầu và khí đốt dọc theo ranh giới biển của họ.

Malaysia và Việt Nam cũng cho biết họ sẽ ký một thỏa thuận nhằm giải quyết những khác biệt. Tháng 6, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Trung Quốc đã cam kết tránh leo thang căng thẳng./.

(Q.Đ tổng hợp)