Theo Bệnh viện Quân y 103, có nhiều loại bướu, khối u ở tuyến giáp, cụ thể:
Bướu giáp đơn thuần
Là loại bướu tuyến giáp mà nguyên nhân không phải là do viêm hay u, chức năng tuyến giáp bình thường.
Bướu giáp đơn thuần thể nhân:
- Bướu nhân có thể nằm ở bất kỳ chỗ nào của tuyến giáp. Thường có hình tròn hoặc bầu dục. Có thể nhỏ bằng hạt lạc hoặc rất lớn (làm biến dạng và gây các triệu chứng chèn ép vùng cổ) bướu có thể là tổ chức nhu mô hoặc nang chứa dịch keo màu vàng nhạt hay xanh đen.
- Có chỉ định mổ cắt bướu vì điều trị nội khoa thường ít kết quả và bản thân bướu có thể gây ra nhiều biến chứng (chèn ép vùng cổ, chảy máu trong bướu, bội nhiễm, ung thư hóa…).
Bướu giáp đơn thuần thể lan tỏa:
- Bướu có hình đồng dạng với tuyến giáp vì nó chính là toàn bộ nhu mô tuyến giáp phì đại tạo thành. Tuy nhiên, mức độ to ra của các thùy tuyến thường không như nhau nên các thùy bướu có thể to không đều.
- Điều trị chủ yếu bằng nội khoa (bổ sung các thuốc có I-ốt) điều trị phẫu thuật chỉ đặt ra khi bướu quá to gây chèn ép vùng cổ hoặc ảnh hưởng đến thẩm mỹ của bệnh nhân.
Bướu giáp đơn thuần thể hỗn hợp:
- Là loại bướu giáp đơn thuần thể nhân (có thể một hay nhiều nhân) trên nền một bướu giáp thể lan tỏa.
- Có chỉ định mổ cắt gần hoàn toàn tuyến giáp với các lý do như ở bướu giáp đơn thuần thể nhân.
Bướu giáp độc tính
Đây là loại bướu có kèm theo tình trạng cường chức năng tuyến giáp (nhiễm độc Thyroxin).
Bướu giáp nhân độc tính:
- Còn gọi là bệnh u độc tuyến giáp hay bệnh Plummer. Trong bệnh này bướu giáp là một bướu thể nhân nhu mô cường chức năng, nó tiết ra quá nhiều hormone giáp gây nhiễm độc cơ thể.
- Biểu hiện bệnh là: Có bướu giáp nhân (thường là bướu nhân đơn độc) kèm theo tình trạng nhiễm độc giáp, nổi bật là các triệu chứng về tim mạch (mạch nhanh, loạn nhịp tim, suy tim…).
- Có chỉ định mổ sớm.
Bướu giáp lan tỏa nhiễm độc - bệnh Basedow hay bệnh Grave
- Các triệu chứng cơ bản của bệnh là: bướu giáp to lan tỏa kèm tình trạng nhiễm độc giáp (mạch nhanh, ăn uống nhiều nhưng vẫn gầy sút nhanh, da nóng và ra nhiều mồ hôi..), lồi mắt, run tay chân, thay đổi tính tình…
- Có thể điều trị bằng nội khoa, I-ốt phóng xạ hay ngoại khoa…Mỗi phương pháp đó đều có những chỉ định riêng.
Bướu giáp Basedow hóa
- Là loại bướu giáp đơn thuần nhưng sau một thời gian, do nguyên nhân nhất định, chuyển thành độc tính (tiết ra quá nhiều hormone giáp gây nhiễm độc cơ thể).
- Có thể chỉ định nội khoa tích cực rồi sớm mổ.
Các u lành tính tuyến giáp
- Các u lành tính tuyến giáp thường là loại u tuyến (Adenoma) của tuyến giáp.
- Hay gặp nhất ở tuổi trung niên: thường là khối u đơn độc, nằm ở bất cứ chỗ nào của tuyến giáp, ranh giới rõ ràng, mặt nhẵn mật độ thường chắc, di động tốt. U có thể gây chèn ép vùng cổ làm bệnh nhân khó thở, nuốt vướng.
- Trên lâm sàng thường khó phân biệt giữa u tuyến giáp lành tính và bướu giáp đơn thuần thể nhân.
- Điều trị chủ yếu là bằng phẫu thuật.
Ung thư tuyến giáp
- Ung thư tuyến giáp thường xuất hiện ở tuổi 40 - 60. Khối u đơn độc nằm ở gần một cực của tuyến giáp (thường ở cực dưới). U có mật độ chắc, bề mặt sần sùi, di động kém do xâm lấn vào tổ chức xung quanh. Cũng vì vậy mà bệnh nhân có thể bị khó nuốt, khó thở và nói khàn sớm tuy u còn nhỏ. Ngoài ra có thể thấy các hạch bạch huyết vùng cổ to ra (nhất là các hạch dọc theo cơ ức đòn chũm).
- Ung thư tuyến giáp thường có tiên lượng tốt hơn so với các loại ung thư khác nếu được phát hiện và mổ sớm.