Quần thể Khu di tích Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác tại huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh) bao gồm khu mộ và tượng đài tại thôn Hải Thượng, xã Sơn Trung; nhà thờ và khu tưởng niệm tại thôn Bảo Thượng, xã Quang Diệm. Đây là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa - lịch sử về vị Đại danh y này.
Đây là di tích nguyên gốc duy nhất, gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp y đức của Lê Hữu Trác trên vùng đất Hương Sơn, Hà Tĩnh cũng như cả nước nói chung.
Khu mộ và tượng đài có diện tích 45.000m2 với 48 hạng mục, gồm: mộ đá Hải Thượng Lãn Ông, nhà phương đình, nhà đón tiếp, vườn cây, đường lát đá lên tượng đài dài 629m với 231 bậc tam cấp và 51 hệ thống chiếu nghỉ, tượng đài Lê Hữu Trác bằng đá cẩm thạch...
Theo truyền ngôn, sinh thời, Lê Hữu Trác thường thả diều trên các đỉnh núi gần nhà. Trước khi mất, ông dặn dò mọi người, diều rơi ở đâu thì mai táng ông ở đó. Đó là vị trí lăng mộ ông bây giờ.
Mộ Lê Hữu Trác nằm ở vùng đất gần chân núi, đầu hướng lên đỉnh cao nhất của dãy núi Minh Tự, chân chiếu thẳng vào dãy núi Trường Sơn. Cạnh khu mộ có trồng một khóm trúc nhỏ, mục đích chỉ dẫn vị trí diều rơi xuống, vừa thể hiện khí chất ngay thẳng, thanh cao của Lê Hữu Trác.
Tuy có một số lần trùng tu, tôn tạo nhưng vị trí mộ, hướng mộ, hình thức mộ không thay đổi. Trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, đây là một khu lăng mộ rất hiếm và độc đáo, không có hình thức tương tự.
Từ vị trí lăng mộ, vượt qua đường lát đá dài 629m với 231 bậc tam cấp là khu tượng đài Lê Hữu Trác trên đỉnh núi Minh Tự. Tượng được làm bằng đá cẩm thạch cao hơn 16m, nặng 350 tấn. Vị trí xây dựng tượng đài cũng là nơi gắn liền với cuộc đời làm thuốc, vui thú cảnh núi rừng của vị Đại danh y.
Cách khu mộ về hướng tây khoảng 7km là nhà thờ và khu tưởng niệm Lê Hữu Trác, thuộc thôn Bảo Thượng, xã Quang Diệm.
Khu nhà thờ nằm cạnh sông Ngàn Phố, diện tích xây dựng 13.500m2 với 18 hạng mục như nhà thờ, nhà đón tiếp, sân hành lễ, nhà bia, vườn thuốc...
Nhà thờ Lê Hữu Trác (thượng điện trong khu lưu niệm) cũng là một di tích nguyên gốc. Ngôi nhà là nơi cả cuộc đời Lê Hữu Trác sinh sống, nghỉ ngơi, bốc thuốc chữa bệnh cứu người. Đặc biệt, tại ngôi nhà này, Lê Hữu Trác viết trọn bộ Hải Thượng Y Tông tâm lĩnh.
Tại khu lưu niệm hiện còn lưu giữ một số tư liệu, hiện vật được phục dựng quan trọng như dụng cụ bào chế thuốc, bản sách thuốc Hải Thượng Lãn Ông toàn thư, sách Y gia tâm lĩnh, Hải Thượng Y tông tâm lĩnh,…
Những tư liệu, hiện vật này vô cùng quý giá, hữu ích cho công tác nghiên cứu về Lê Hữu Trác nói riêng, cũng như nghiên cứu về y học cổ truyền nói chung.
Khuôn viên khu lưu niệm Lê Hữu Trác còn trồng bảo tồn rất nhiều chủng loại cây thuốc nam quý, có thể xem như là nguồn gen dự trữ quan trọng cho y học cổ truyền hiện nay.
Chùa Tượng Sơn ở thôn 1, xã Sơn Giang (Hương Sơn) cũng là địa điểm gắn liền với Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác. Chùa được xây dựng vào đời Hậu Lê, đời Lê Dụ Tông (đầu thế kỷ XVIII), do bà ngoại của Đại danh y là bà Đặng Phùng Hầu - vợ của Tả hiệu điểm Tham đốc Quận công Bùi Tướng Công lập ra.
Trong những năm 1760-1786, Hải Thượng Lãn Ông đã dành phần lớn thời gian lưu lại chùa, mở phòng mạch chữa bệnh cho người dân. Tại đây, ông cũng hoàn thành các tác phẩm: Y tông tâm lĩnh (gồm 28 tập, 66 quyển), Y trung quan kiện (1780), Y hải cầu nguyên (1782), Thượng kinh ký sự (1783), Vận khí bí điển (1786) và các tác phẩm khác.
Theo UBND tỉnh Hà Tĩnh, Di tích Mộ và Khu lưu niệm Lê Hữu Trác được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch) xếp hạng Di tích Quốc gia vào năm 1990.
Trong năm 2023, UBND tỉnh Hà Tĩnh đã chỉ đạo Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với các bộ, ban ngành, cơ quan, đơn vị liên quan và UBND huyện Hương Sơn lập hồ sơ khoa học trình Thủ tướng Chính phủ xếp hạng Mộ và Khu lưu niệm Lê Hữu Trác là Di tích Quốc gia đặc biệt.
Lê Hữu Trác tên thật Lê Hữu Huân, sinh ngày 12 tháng 11 năm Giáp Thìn 1724, là con thứ bảy trong một gia đình đại trí thức ở làng Liêu Xá, huyện Đường Hào (nay thuộc huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên).
Ông lấy hiệu Hải Thượng Lãn Ông. Hải Thượng là hai chữ đầu của tỉnh Hải Dương và phủ Thượng Hồng quê cha, cũng là xứ Bàu Thượng quê mẹ. Lãn Ông nghĩa là "ông lười", ngụ ý lười biếng, chán ghét công danh, tự giải phóng mình khỏi sự ràng buộc của danh lợi, quyền thế, tự do nghiên cứu y học, thực hiện chí hướng mà mình yêu thích.
Thuở nhỏ, Lê Hữu Trác theo cha ăn học ở Kinh thành Thăng Long, sớm nổi tiếng với tư chất thông minh, am tường cả nho, y, lý, số,… Sống giữa thời buổi nhiễu nhương, loạn lạc, năm 26 tuổi, ông quyết định từ bỏ chốn quan trường về quê ngoại ở làng Bàu Thượng, xã Tĩnh Diệm (nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh) phụng dưỡng mẹ già.
Hơn 40 năm náu thân ở chốn thâm sơn cùng cốc, "Ông già lười" vẫn miệt mài tìm kiếm, khảo cứu, ươm trồng các loại cây thuốc bản địa, làm thơ, dạy học, viết sách, chữa bệnh cứu người,…
Lê Hữu Trác nhiều lần được triều đình mời về Kinh. Song mỗi lần như thế, ông đều gắng xong bổn phận rồi lại trở về quê ngoại Hương Sơn - nơi ông không màng đến công danh phú quý. Thay vào đó, thiên nhiên, con người, trí tuệ và đức cần cù, dân dã… hun đúc ông trở thành một Đại danh y, danh nhân văn hóa của đất nước.
Lê Hữu Trác để lại cho đời một tấm gương sáng về y đức, y lý, y thuật. Ông có đóng góp lớn cho nền y học dân tộc Việt Nam, trong đó có thuốc Nam khi kế thừa xuất sắc sự nghiệp "Nam dược trị Nam nhân" của Tuệ Tĩnh thiền sư.
Tác phẩm "Hải Thượng y tông tâm lĩnh" (28 tập, 66 quyển) của ông được đánh giá là công trình y học xuất sắc nhất trong thời Trung đại Việt Nam. Bên cạnh đó, các cuốn như "Lĩnh Nam bản thảo", "Thượng kinh ký sự" của ông không chỉ có giá trị về y học mà còn có giá trị văn học, lịch sử, triết học.