Bác sĩ chuyên khoa 2, Huỳnh Tấn Vũ – Bệnh viện Đại học Y dược, cơ sở 3 - cho biết ngày xuân đến ai cũng muốn trang hoàng nhà cửa với cây cảnh, hoa tươi, để cho căn nhà thêm tươi mới, rạng rỡ, tràn đầy sức sống, mong đón năm mới với nhiều khí thế, vui tươi, hút tài lộc.
Cây hoa cây cảnh có nhiều loại, những loại hoa cảnh tốt cho sức khoẻ, sức khoẻ chính là một loại tài lộc vô giá, có sức khoẻ rồi chúng ta sẽ dễ dàng có được thành công về sự nghiệp, tài chính, tình cảm….
Cây sung
Cây Sung được hiểu theo nghĩa là “sung túc”, do đó được cho là hợp phong thuỷ mùa tết, trái thì được chưng trên mâm ngũ quả, cây sung với quả chùm chùm để làm cảnh được nhiều người ưa thích.
Hầu như tất cả các bộ phận của cây sung đều được sử dụng, như lá, quả, nhựa và vỏ sung. Trong nhựa sung chứa các thành phần như bergenin, lupeol acetat và β – sitosterol.
Cây sung còn là một vị thuốc dùng trong phạm vi nhân dân. Lá sung non dùng để ăn, thường để gói nem. Quả sung cũng dùng để ăn. Nhựa sung được nhân dân coi là một vị thuốc rất quý để chữa bệnh nhức đầu và một số bệnh ngoài da (chốc, nhọt, sưng đau, tụ máu).
Trị mụn nhọt, sưng đau: lấy nhựa sung tươi, bôi trực tiếp vào mụn nhọt mới lên hoặc nơi chốc lở, sưng đau, ngày bôi 2 – 3 lần; hoặc dùng lá sung non, giã nát với nhựa sung rồi đắp vào mụn nhọt sưng, đỏ, nóng, đau, ngày vài lần.
Lá sung chữa mất sữa: lá sung bánh tẻ, lá mít bánh tẻ, lá mơ tam thể, mỗi thứ 30g, sắc uống, ngày một thang, chia hai lần uống, trước bữa ăn.
Hoa dừa cạn
Hoa dừa cạn có tên khoa học là Cartharanthus roseus, còn tên gọi khác là hoa hải đằng, trường xuân, là loài hoa rất được yêu thích bởi có nhiều màu sắc rực rỡ và phù hợp với nhiều kiểu trang trí khác nhau.
Hiện trên thị trường có 2 loại chính là hoa dừa cạn đứng và hoa dừa cạn rũ. Tùy vào mục đích trang trí mà lựa chọn loại nào. Hoa dừa cạn hiện nay chủ yếu là giống nhập có màu sắc đa dạng. Đây là loại hoa có sức sống bền bỉ, là loại dễ trồng.
Dừa cạn cũng là một vị thuốc trong Y học cổ truyền. Bộ phận dùng để làm thuốc chủ yếu là lá và phần ngọn cây được phơi nắng nhẹ hoặc sấy ở nhiệt độ 30–50ºC cho đến khô. Sau đó, người ta đem sắc nước uống, chế biến thành dạng trà hoặc dùng giã, đắp. Đôi khi, toàn cây hoặc rễ cùng được sử dụng để làm thuốc sắc hay cao lỏng.
Đây là dược liệu có vị hơi đắng, tính mát, có tác dụng hoạt huyết, tiêu thũng, hạ huyết áp và giải độc. Dược liệu này được dùng để thông tiểu tiện, chữa bệnh tiểu ít, kinh bế, huyết áp cao, có nơi dùng làm thuốc ra mồ hôi, chữa tiêu hoá kém và lỵ (cấp và mạn).
Hoa dành dành
Hoa dành dành cũng là loại hoa được nhiều người ưa chuộng vì được cả hương lẫn sắc, tên khoa học: Gardenia angustifolia Merr thuộc họ Rubiaceae, còn được biết đến với cái tên mỹ miều: bạch thiên hương là loại hoa truyền thống có hình dáng duyên dáng như bông hoa hồng, màu trắng tinh khôi, hương thơm nồng nàn nên có tên là thiên hương, nở vào giữa mùa xuân đến mùa hè, lại cực kỳ sai hoa, có lá xanh tốt quanh năm, ít rụng lá.
Cây không chỉ có hoa đẹp trồng cho các cảnh quan mà cây còn có tác dụng trong đông y. Tất cả các bộ phận của cây dành dành đều dùng làm thuốc, đặc biệt là sơn chi tử (quả dành dành), quả được lấy làm màu vàng nhuộm trong thực phẩm.
Khi quả chín, người ta ngắt bỏ cuống, ngâm quả trong nước sôi hoặc đồ qua, bóc bỏ vỏ lấy nhân, dùng làm thuốc thanh nhiệt lương huyết. Nếu sao qua tả hỏa mạnh, sao đen lại cầm máu. Lá dành dành vị đắng chát, tính hàn; có tác dụng tiêu thũng, tán ác sang. Chữa nhọt độc, đầu đinh và vết thương.
Hoa dành dành vị đắng tính hàn; có tác dụng thanh phế lương huyết. Chữa phế nhiệt, ho có đờm đặc (mỗi lần dùng 3 hoa, thêm mật ong, hấp chín); chữa chảy máu cam. Rễ dành dành vị đắng tính hàn; có tác dụng thanh nhiệt lương huyết, giải độc. Chữa sốt cảm mạo, viêm gan vàng da, thổ huyết, chảy máu cam, viêm thận phù thũng.
Hoa hồng bạch
Thú chơi hoa hồng gần đây rất rầm rộ, một trong nhiều loại hoa hồng được yêu thích là hồng bạch bởi vẻ đẹp tinh khôi của nó. Hoa vừa đẹp vừa thơm, lại là vị thuốc trị ho rất hay trong Đông y.
Có nhiều loại hoa hồng bạch, trong đó, có hai loại dễ bị nhầm lẫn và thường được nhắc đến là hồng bạch xếp (màu lá đậm, nhiều cánh hơn, cánh dày, mép cánh nhọn) và hồng bạch ho (màu lá nhạt, cánh mỏng hơn, mép cánh cánh cúp cong tròn).
Khi làm thuốc, người ta thường dùng hồng bạch ho và điều này có thể thấy từ tên gọi của nó.
Hoa hồng bạch (dân gian gọi là hồng bạch ho) là vị thuốc chuyên dùng cho trẻ em bởi tính dịu và vị ngọt nhẹ của nó. Sau khi thu hái các cánh hoa hồng bạch, người ta phơi trong chỗ râm mát, có gió lùa cho các cánh hoa khô tự nhiên.
Theo y học cổ truyền, hoa hồng bạch có tính bình và có các tác dụng làm se niêm mạc, sát khuẩn, giảm ho, long đờm, nhuận tràng, giúp an thần dễ ngủ.
Cách dùng: để trị ho và viêm họng, ho có đờm, lấy 5 đến 10 g cánh hoa hồng bạch hãm lấy nước uống (nếu dùng tươi thì khoảng 20 g), có thể hấp với đường phèn. Khi bị mụn nhọt sưng tấy, nóng đỏ gây khó chịu, hái một ít cánh hoa hồng bạch rồi rửa nhẹ, giã nát và đắp lên da). Nếu miệng và lưỡi bị lở loét, hái vài cánh hoa hồng bạch giã nhuyễn rồi trộn với một ít mật ong và thoa lên
Xạ can
Xạ can là loại cây thân thảo, sống dai, cho hoa đẹp, màu vàng cam. Tên khoa học: Belamcanda chinensis Lem. Họ khoa học: Họ Lay Ơn (Iridaceae).
Người ta dùng thân rễ (thường gọi là củ) của cây để làm thuốc. Rễ cong queo, có đốt ngắn màu vàng nhạt hoặc vàng nâu, ruột màu trắng, có mùi thơm, cứng. Xạ can vị đắng, tính lạnh, có công dụng chính là thanh nhiệt giải độc, tiêu viêm, tiêu đàm.
Xạ can thường được dùng để điều trị viêm họng, hầu họng sưng đau, ho có đờm, hen, khó thở, viêm amidan. Ngoài ra, còn được dùng để chữa sốt, đại tiểu tiện không thông lợi, viêm tuyến vú tắc tia sữa; đau bụng kinh, kinh nguyệt không đều, đau dạ dày; điều trị các vết loét ngoài da...
Cây cảnh ngày tết không chỉ mang lại vẻ đẹp, mang lại nhiều niềm vui và may mắn, mà chúng còn là những dược thảo tốt.