Các tư liệu phương Tây xuất bản từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, trong đó có những trang văn bản miêu tả về hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa cũng như quá trình người Việt đến hai quần đảo này để khai thác hải sản, cắm mốc chủ quyền và thực thi chủ quyền.
Từ năm 1949, thay đổi chính trị của một số nước trong khu vực làm xuất hiện những thực thể nhà nước mới liên quan tới cuộc tranh chấp trên biển Đông. Ở đây, vấn đề quyền kế thừa có tầm quan trọng của nó.
“Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm đóng quân sự, kết quả của việc sử dụng vũ lực trái với các điều khoản của Hiến chương LHQ. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là một đối tượng thụ đắc bởi một quốc gia khác do đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào bằng sự đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực đều là bất hợp pháp”.
Quy định đường cơ sở của TQ ở quần đảo Hoàng Sa đã vi phạm hai nguyên tắc cơ bản: đó là sự vi phạm chủ quyền lãnh thổ của VN và cũng là sự vi phạm các quy định của luật biển quốc tế về vạch đường cơ sở. Nếu đặt vấn đề chủ quyền lãnh thổ sang một bên để chỉ xét về mặt kỹ thuật, thì việc vạch đường cơ sở của TQ tại Hoàng Sa không tôn trọng tinh thần và nội dung của Công ước của LHQ năm 1982 về Luật Biển.
Năm 2016 đánh dấu một sự kiện lịch sử khá đặc biệt: cách đây tròn 200 năm (1816-2016), vua Gia Long thân chinh ra Hoàng Sa thực hiện chủ quyền. Sự kiện này không chỉ khiến mọi công dân Việt Nam hết mực dõi theo, mà còn làm cho cả nhân loại yêu chuộng hòa bình, công lý quan tâm chú ý.
Một trong những vấn đề Vua Minh Mệnh quan tâm chú trọng nhất trong thời kỳ làm Vua (1820-1840) là chủ quyền vùng biển đảo quốc gia. Thư tịch của triều Nguyễn, tộc phả của các dòng họ ở các tỉnh Nam Trung bộ (Khánh Hòa, Quảng Ngãi, Bình Định), đặc biệt là kho Châu bản hiện còn đã chứng minh: Minh Mệnh là một vị Vua cho công bố nhiều văn bản Nhà nước nhất về việc quản lý vùng biển đảo Hoàng Sa.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, Pháp quay lại Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 1946, Pháp đưa một phân đội bộ binh đổ bộ từ tàu Savorgnan de Brazza trở lại Hoàng Sa. Dựa trên Tuyên bố Cairo và Tuyên bố Potsdam, 4 tàu chiến của Trung Hoa Dân Quốc đổ bộ lên quần đảo với lý do giải giáp quân Nhật trong năm 1946.
Ngài Thân Trọng Huề, nguyên là thượng thư Bộ Binh, qua đời năm 1925, trong một bức thư đề ngày 3 tháng 3 năm ấy, đã viết "những hòn đảo này luôn luôn thuộc chủ quyền của nước An-Nam, việc này không có gì để bàn cãi cả".
Trong lịch sử, Việt Nam đã phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh chống ngoại xâm. Phần lớn thư tịch cổ quốc gia trong các giai đoạn đó đã bị quân xâm lược tiêu hủy với mục tiêu xóa sạch văn hóa Việt để dễ bề đồng hóa. Tuy nhiên, chỉ với những tài liệu chính sử còn lại đến nay cũng đủ để chứng minh người Việt Nam đã có chủ quyền lịch sử từ rất lâu đời trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, hoàn toàn phù hợp với tập quán cũng như luật pháp quốc tế về việc xác lập và khẳng định chủ quyền lãnh thổ.
Gia Long - vị vua khai sáng triều Nguyễn, ngay từ khi lên ngôi (1802) đã tích cực tiếp nối truyền thống từ thời các chúa Nguyễn (thế kỷ XVI-XVIII) xây dựng lực lượng thủy quân vững mạnh, để có thể bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ trên các vùng biển đảo của Việt Nam.
Trong gần 220 năm của ba thế kỷ XVI đến XVIII, các chúa Nguyễn (gồm 9 đời, tính từ khi chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa năm 1558 đến năm 1778, chúa Nguyễn Phúc Thuần mất) đã một mặt xây dựng chính quyền Đàng Trong từng bước vững mạnh về chính trị, mặt khác cũng tăng cường giao lưu đối ngoại, đẩy mạnh quan hệ kinh tế và văn hóa với các nước.
Mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN...