Thông tin đó được Bộ Giao thông vận tải (GTVT) nêu trong Báo cáo tổng kết 5 năm thi hành Luật Đường sắt 2017, vừa gửi tới
Đang lựa chọn một trong hai kịch bản
Bộ GTVT cho biết đã có tờ trình gửi Thủ tướng Chính phủ báo cáo nghiên cứu tiền khả thi với 4 kịch bản, nhưng hiện tập trung đánh giá để lựa chọn một trong hai kịch bản.
Kịch bản 1: Xây dựng đường sắt đôi khổ đường 1.435mm, tốc độ thiết kế tối đa 350km/h, tốc độ khai thác 320km/h để vận tải hành khách, đường sắt hiện hữu dành riêng cho vận tải hàng hóa. Tổng mức đầu tư dự kiến khoảng 58,71 tỷ USD.
Ưu điểm của phương án này, theo Bộ GTVT, đáp ứng tốt nhu cầu vận tải, tạo cân bằng giữa các phương thức vận tải trên hành lang Bắc - Nam; hình thành tuyến đường sắt khai thác riêng vận tải hành khách và hàng hóa và rút ngắn thời gian vận chuyển hành khách. Chi phí đầu tư và vận hành khai thác bảo dưỡng thấp.
Nhược điểm là chỉ có thể kết nối vận tải hàng hóa bằng khổ đường 1.000mm trên trục Bắc - Nam, các tuyến đường sắt mới đều định hướng xây dựng theo khổ tiêu chuẩn 1.435mm nên phải trung chuyển hàng hóa tại các ga đầu mối, không thuận lợi cho vận tải hàng hóa.
Kịch bản 2: Xây dựng đường sắt đôi khổ đường 1.435mm để vận tải hành khách và hàng hóa, tốc độ khai thác tàu khách 180km/h, tàu hàng 120km/h. Tổng mức đầu tư dự kiến khoảng 64,9 tỷ USD.
Ưu điểm của phương án này là thuận lợi vận tải hàng hóa trên trục Bắc - Nam, kết nối thuận lợi với các tuyến đường sắt khác bằng khổ 1.435mm. Còn nhược điểm là tính hấp dẫn về hành khách không cao, chi phí đầu tư, vận hành bảo dưỡng lớn (do vận tải thêm hàng hóa); thời gian vận chuyển hành khách dài hơn kịch bản 1.
"Đây là dự án có quy mô, kinh phí đầu tư rất lớn, tiêu chuẩn kỹ thuật và công nghệ phức tạp, có mức độ ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế - xã hội đất nước nên cần nghiên cứu, thẩm tra, thẩm định kỹ lưỡng, bảo đảm sự thành công, hiệu quả đầu tư", Bộ GTVT nhận định.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ GTVT đang nghiên cứu, tiếp thu khuyến nghị của Hội đồng thẩm định nhà nước để hoàn chỉnh dự án báo cáo Quốc hội chấp thuận chủ trương đầu tư theo đúng Kết luận số 49-KL/TW/2023 của Bộ Chính trị về định hướng phát triển giao thông vận tải đường sắt Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045: Đến năm 2025 phấn đấu hoàn thành phê duyệt chủ trương đầu tư ; khởi công các đoạn ưu tiên trong giai đoạn 2026-2030 (Hà Nội - Vinh; TPHCM - Nha Trang). Hoàn thành toàn bộ tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam trước năm 2045.
Từ kinh nghiệm phát triển đường sắt của các quốc gia phát triển, Bộ GTVT nhận thấy trình độ khoa học công nghệ, công nghiệp đường sắt là một trong những yếu tố quan trọng để phát triển lĩnh vực đường sắt nói chung và đường sắt tốc độ cao nói riêng.
Vì vậy, theo Bộ này, cần sớm hoạch định chiến lược phát triển công nghiệp đường sắt, kết hợp xây dựng cơ chế chính sách để phát triển các cơ sở công nghiệp đường sắt và công nghiệp phụ trợ. Quá trình đấu thầu mua sắm thiết bị sẽ xác lập các tiêu chí, nguyên tắc ràng buộc nhà thầu nước ngoài liên doanh và chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp trong nước.
Các nước có đường sắt tốc độ cao trên thế giới đều có chương trình phát triển quốc gia về nguồn nhân lực và được đào tạo ngay từ giai đoạn chuẩn bị dự án.
Thời điểm thích hợp để Việt Nam xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao?
Bộ GTVT đã nghiên cứu kinh nghiệm của 21 quốc gia, vùng lãnh thổ đang khai thác, 7 nước đang xây dựng; các nghiên cứu chuyên sâu của các tổ chức quốc tế (UIC, WB, JICA, KOICA), các học giả và tổ chức đoàn công tác liên ngành trực tiếp nghiên cứu tại 4 nước (Nhật Bản, Đức, Tây Ban Nha, Trung Quốc) để rút ra được nhiều bài học.
Trong đó, Bộ GTVT phản ánh các quốc gia có hình thái địa kinh tế tập trung ở một số hành lang chiến lược hoặc theo trục dọc tương tự Việt Nam đều phát triển đường sắt tốc độ cao khá sớm để kết nối các hành lang, tạo không gian phát triển, tạo tiền đề, động lực phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Thời điểm quyết định đầu tư đường sắt tốc độ cao của các nước không có sự tương đồng về quy mô nền kinh tế, khả năng chi trả của người dân.
"Tuy nhiên, nghiên cứu của Ngân hàng thế giới cho thấy đây là thời điểm thích hợp để Việt Nam xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao khi thu nhập bình quân đầu người năm 2022 đạt khoảng 4.110 USD và ước đạt khoảng 7.500 USD vào năm 2030", Bộ GTVT nêu quan điểm.
Để thực hiện thành công dự án, Bộ GTVT cho biết các quốc gia đều có quyết tâm chính trị mạnh mẽ ở cấp cao nhất từ thể chế hóa quy định pháp luật, huy động nguồn vốn, đào tạo nguồn lực, phát triển công nghiệp và các quyết định đưa ra đều có tầm nhìn lên đến hàng trăm năm.
Về lựa chọn công nghệ, cơ bản các nước đều lựa chọn loại hình đường sắt tốc độ cao chạy trên ray vì mức độ tin cậy, hiệu quả, thuận lợi kết nối với tuyến đường sắt hiện hữu. Bên cạnh đó, các nước cũng đang nghiên cứu nâng cao tốc độ khai thác, sử dụng cả công nghệ động lực phân tán và tập trung tùy theo phương án khai thác.
Dự án đường sắt tốc độ cao mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội rất lớn nhưng không thể hoàn vốn nếu đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP), nên các nước cơ bản đều sử dụng đầu tư công để đầu tư toàn bộ phần hạ tầng.