Chuyên gia phân tích nguyên nhân tỉ lệ tử vong mẹ và bé ở Việt Nam còn cao

Thùy Linh| 28/12/2022 08:57

Việc không được tiếp cận đầy đủ tới dịch vụ chăm sóc sức khỏe trong thời gian mang thai, sinh con và khi mới sinh chính là nguyên nhân gây ra 600 ca tử vong mẹ và hơn 10.000 ca tử vong trẻ sơ sinh được ghi nhận ở Việt Nam mỗi năm.

Chuyên gia phân tích nguyên nhân tỉ lệ tử vong mẹ và bé ở Việt Nam còn cao
TS.BS Trương Hồng Sơn- Viện trưởng Viện Y học ứng dụng Việt Nam. Ảnh: NVCC

Mỗi năm ghi nhận 600 ca tử vong mẹ và hơn 10.000 ca tử vong trẻ sơ sinh

TS.BS Trương Hồng Sơn, Phó Tổng Thư ký -Tổng hội Y học Việt Nam, Viện Trưởng Viện Y học ứng dụng Việt Nam cho rằng: Dù đã đạt được những tiến bộ, nhưng việc sinh con ở Việt Nam vẫn là một việc làm đầy rủi ro đối với nhiều phụ nữ và con cái của họ.

"Việc không được tiếp cận đầy đủ tới dịch vụ chăm sóc sức khỏe trong thời gian mang thai, sinh con và khi mới sinh chính là nguyên nhân gây ra 600 ca tử vong mẹ và hơn 10.000 ca tử vong trẻ sơ sinh được ghi nhận ở Việt Nam mỗi năm"- ông nói.

TS Trương Hồng Sơn cho rằng: Trẻ em vẫn không có được sự khởi đầu tốt nhất cho cuộc sống, khi có tới 100 trẻ em dưới 5 tuổi chết mỗi ngày vì những nguyên nhân có thể phòng tránh được.

"Mặc dù người dân tộc thiểu số chiếm 15% tổng dân số, nhưng tỉ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi của nhóm này cao gấp 3,5 lần so với người Kinh. Hơn nữa, còn có nhiều trường về tử vong trẻ sơ sinh và thai chết lưu không được báo cáo, đặc biệt là ở vùng nông thôn miền núi nơi dân số chủ yếu là người dân tộc"- BS Sơn cho hay.

Theo BS Sơn cho rằng thực tế hiện nay vẫn còn sự chênh lệch và bất bình đẳng trong tiếp cận và sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản giữa các dân tộc và vùng miền.

Tỷ lệ tử vong mẹ ở vùng 3 cao gấp 3,5 lần so với vùng 1; tỷ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi ở nông thôn cao gấp đôi thành thị và khoảng cách về tử vong trẻ em dưới 1 tuổi ở dân tộc thiểu số với dân tộc Kinh ngày càng gia tăng.

Tại các tỉnh miền núi, vùng khó khăn vẫn có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao hơn so với trung bình cả nước khi tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ em dân tộc thiểu số cao gấp hai lần và tỷ lệ suy dinh dưỡng nhẹ cân cũng cao gấp 2,5 lần so với trẻ em là người Kinh (tương ứng 31,4% so với 15% và 21% so với 8,5%).

Tỷ lệ tử vong mẹ ở cấp quốc gia đã giảm xuống còn 46 ca tử vong/100 nghìn trẻ đẻ sống, nhưng tỷ lệ này vẫn ở mức cao với 100 đến 150 ca tử vong/100 nghìn trẻ đẻ sống ở các vùng miền núi và vùng dân tộc thiểu số, như ở khu vực trung du và miền núi phía bắc và khu vực Tây Nguyên.

Hơn một nửa số ca tử vong mẹ xảy ra tại các bệnh viện tuyến huyện và tỉnh do năng lực quản lý các biến chứng thai sản của các cơ sở y tế vẫn còn hạn chế.

Thiếu cán bộ chuyên môn sản, nhi, gây mê hồi sức

Phân tích một số nguyên nhân, BS Sơn cho rằng do thiếu nhân lực (thiếu cán bộ chuyên môn sản, nhi, gây mê hồi sức; 30% số bác sĩ đa khoa làm công tác chăm sóc sản khoa, nhi khoa tại tuyến huyện); thiếu cơ sở vật chất, trang thiết bị; năng lực hạn chế về cấp cứu sản khoa, sơ sinh (sàng lọc, phát hiện dấu hiệu nguy hiểm, chuyển tuyến, chẩn đoán, tiên lượng và xử trí)

Hơn nữa, giao thông đi lại khó khăn do đặc thù vùng núi, cho nên nhân viên y tế khó tiếp cận, rào cản văn hóa và hiểu biết hạn chế về các biến chứng thai sản cũng là những nguyên nhân khiến tỷ lệ tử vong mẹ gia tăng.

Việt Nam vẫn đang nỗ lực nâng cao chất lượng và độ bao phủ của dịch vụ chăm sóc y tế trước, trong và sau khi sinh để châm dứt tình trạng tử vong ở mẹ, tử vong trẻ sơ sinh.

Ông Sơn cho rằng cần tăng cường khả năng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản có chất lượng và tự nguyện cho đồng bào dân tộc thiểu số; nâng cao năng lực quản lý cấp cứu sản khoa ở khu vực miền núi.

Chuyển đổi kỹ thuật số, các can thiệp đổi mới sáng tạo cũng bao gồm các can thiệp chăm sóc sức khỏe từ xa, trong đó ứng dụng trên điện thoại sử dụng internet để cải thiện việc cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản bà mẹ, trẻ em nhằm thúc đẩy sinh con an toàn trong cộng đồng thiểu số các vùng dân tộc, vùng núi, vùng khó khăn;

Đồng thời, tuyên truyền sâu rộng cho chị em phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, bà mẹ mang thai trong quá trình mang thai phải bảo đảm bốn lần khám trong suốt thời gian thai kỳ.

Chú trọng tập trung xây dựng mạng lưới cô đỡ thôn bản ở các vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, bởi đội ngũ này là cánh tay nối dài của ngành y tế, có thể giúp giảm tử vong ở bà mẹ và trẻ sơ sinh.

Nổi bật Việt Báo
Đừng bỏ lỡ
Chuyên gia phân tích nguyên nhân tỉ lệ tử vong mẹ và bé ở Việt Nam còn cao
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO