Theo BS Đào Hữu Ghi – trưởng khoa điều trị bệnh da liễu nam, bệnh viện Da liễu Trung ương cho biết, giang mai là căn bệnh xã hội nguy hiểm lây qua đường tình dục, nó ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe và tính mạng của người bệnh.
Tác nhân gây bệnh giang mai là xoắn khuẩn nhạt màu Treponema pallidum do Pritz Schaudinn và Erch Hauffman tìm ra năm 1905. Xoắn khuẩn có hình lò xo, bao gồm 6-14 vòng xoắn. Sức đề kháng của xoắn khuẩn này rất yếu, ra khỏi cơ thể nó sống không quá vài giờ. Trong nước đá nó vẫn giữ được tính di động rất lâu, ở nhiệt độ 45 độ C sẽ bị chết sau 30 phút. Các chất sát khuẩn, xà phòng có thể diệt được xoắn khuẩn trong vài phút.
Khi quan hệ tình dục không an toàn, xoắn khuẩn thâm nhập qua da của bộ phận sinh dục ít nhiều bị xây xát và gây bệnh tại chỗ (săng), đi vào máu và lan ra khắp cơ thể.
Một trường hợp khác tuy rất ít gặp phải, nhưng bệnh giang mai còn có thể lây gián tiếp qua các đồ dùng, vật dụng bị nhiễm bẩn, hoặc lây do truyền máu (tiêm truyền máu hoặc tiêm chích ma túy mà bơm tiêm không khử khuẩn).
Khi bị giang mai, các dấu hiệu thường mờ nhạt hơn các bệnh khác. Theo bác sĩ Ghi, thời gian ủ bệnh khoảng 3-4 tuần bị lây. Dấu hiệu nhận biết đó là các săng giang mai, một vết chợt nông hình tròn hay bầu dục, không có gò nổi cao, màu đỏ của thịt tươi và có nền cứng. Các săng này thường gặp nhất là ở niêm mạc sinh dục.
Ở nữ giới, hay gặp ở môi lớn, môi bé, mép âm hộ. Ở nam giới hay gặp ở qui đầu, miệng sáo, bìu… Ngoài ra săng có thể gặp ở miệng, môi, lưỡi, vùng hạch vùng bẹn sưng to, thành chùm, trong đó có một hạch to nhất gọi là “hạch chúa”.
Giang mai nếu không được điều trị kịp thời sẽ chuyển qua giai đoạn 2, với các triệu chứng như: viêm hạch lan toả, rụng tóc, các dát đỏ hồng rải rác ở thân mình. Giai đoạn này xuất hiện khoảng từ 7 – 8 tuần khi lây bệnh.
Khoảng 2 - 6 tháng sau khi xuất hiện các thương tổn của giang mai giai đoạn 2, các thương tổn biến mất và bước vào giai đoạn kín. Thời kỳ này không có triệu chứng lâm sàng nhưng vẫn lây cho người khác.
Bác sĩ Ghi cho biết nếu không điều trị, các dấu hiệu sẽ hết và bệnh diễn biến nhiều năm, có thể 10, 20, 30 năm, có khi cả đời, có lúc rầm rộ, có những thời kỳ im lặng không có triệu chứng gì, làm cho người bệnh lầm tưởng đã khỏi và có thể lây truyền cho thế hệ sau.
Nguy hiểm hơn, bệnh có thể xâm nhập vào tất cả các phủ tạng, đặc biệt là da, tim mạch, thần kinh trung ương và gây nhiều biến chứng.