Thông qua Nghị quyết giải thích khoản 1 Điều 289 của Bộ luật Hình sự năm 2015

Xã hội - Ngày đăng : 10:45, 23/11/2021

Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Nghị quyết giải thích khoản 1 Điều 289 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Sáng 23/11, tiếp tục chương trình phiên họp thứ 5, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét thông qua Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích một số điều của Bộ luật Hình sự.

Với 100% ủy viên tán thành, Ủy ban Thường vụ Quốc hội biểu quyết thông qua dự thảo Nghị quyết. Dự kiến Nghị quyết có hiệu lực từ ngày 14/1/2022.

Trình bày tờ trình dự thảo Nghị quyết trước đó, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long cho biết, việc xây dựng, ban hành Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015 để thống nhất việc vận dụng các quy định của Bộ luật Hình sự trong xử lý hành vi vi phạm bí mật kinh doanh là cần thiết để Việt Nam thực hiện cam kết của mình theo yêu cầu của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Hiệp định CPTPP).

Hiệp định CPTPP yêu cầu các quốc gia thành viên phải xử lý hình sự và áp dụng hình phạt đối với ít nhất một trong ba hành vi: Tiếp cận một cách cố ý và trái phép tới bí mật kinh doanh được lưu giữ trong một hệ thống máy tính; Chiếm đoạt một cách cố ý và trái phép bí mật kinh doanh, kể cả thông qua một hệ thống máy tính; Bộc lộ một cách gian lận, hoặc thay vào đó, bộc lộ một cách cố ý và trái phép bí mật kinh doanh, kể cả thông qua một hệ thống máy tính. Việc quy định mục đích của một trong 3 hành vi nêu trên sẽ tùy thuộc vào quyết định của các quốc gia thành viên.

Thông qua Nghị quyết giải thích khoản 1 Điều 289 của Bộ luật Hình sự năm 2015 - 1

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định điều hành nội dung xem xét dự thảo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích một số điều của Bộ luật Hình sự.

Dự thảo Nghị quyết đã lựa chọn hành vi “lấy cắp dữ liệu” quy định tại khoản 1 Điều 289 và hành vi “chiếm đoạt trái phép tài liệu của cơ quan, tổ chức” quy định tại khoản 1 Điều 342 Bộ luật Hình sự năm 2015 để giải thích.

Đồng thời, quy định về mục đích của người thực hiện hành vi vi phạm bí mật kinh doanh, đó là “nhằm đạt được lợi thế thương mại, thu lợi bất chính hoặc gây tổn hại cho chủ sở hữu”. Với cách giải thích như dự thảo Chính phủ trình thì Nghị quyết sẽ tương đối bao quát cả hành vi và mục đích thực hiện.

Dự thảo Nghị quyết gồm 3 điều với những nội dung chính gồm giải thích khoản 1 Điều 289 của Bộ luật Hình sự năm 2015: Hành vi cố ý vượt qua cảnh báo, mã truy cập, tường lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác hoặc bằng phương thức khác xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác lấy cắp dữ liệu quy định tại khoản 1 Điều 289 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được hiểu là bao gồm cả hành vi cố ý vượt qua cảnh báo, mã truy cập, tường lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác hoặc bằng phương thức khác xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác chiếm đoạt dữ liệu có chứa bí mật kinh doanh, kể cả nghe, đọc, ghi chép, chụp ảnh, ghi âm, ghi hình dữ liệu có chứa bí mật kinh doanh.

Trình bày báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Lê Thị Nga cho biết, Ủy ban Tư pháp nhận thấy, để bảo đảm thực hiện hiệu quả và đúng lộ trình các cam kết của Việt Nam trong Hiệp định, bảo đảm sự phù hợp, thống nhất trong hệ thống pháp luật, bảo đảm sự rõ ràng, minh bạch để áp dụng thống nhất các quy định của Bộ luật Hình sự, đồng thời để phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam thì việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết để giải thích một số điều của Bộ luật Hình sự trong xử lý hành vi vi phạm bí mật kinh doanh là cần thiết, đúng thẩm quyền.

Kết luận nội dung này, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định cho biết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tán thành việc Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết với tên gọi “Nghị quyết giải thích khoản 1 Điều 289 của Bộ luật Hình sự năm 2015”.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đồng tình với việc Nghị quyết được áp dụng cùng với Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14.

Xuân Trường

Xuân Trường