Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ thảo luận tại Tổ đại biểu Quốc hội chiều 29/10. Ảnh: VGP/Nhật Bắc |
Thảo luận tại Tổ đại biểu Quốc hội chiều 29/10, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đánh giá cao Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế về Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2021-2025.
Chủ tịch Quốc hội đánh giá đây là bản Quy hoạch đạt chất lượng tốt, được xây dựng bằng các phương pháp mới, hiện đại, được giới chuyên gia đánh giá cao. Quy hoạch đã bám sát các nguyên tắc này trên cơ sở áp dụng phương pháp quy hoạch vừa động vừa tĩnh, đồng thời bám sát hơn các dữ liệu cập nhật về tác động của biến đổi khí hậu, tác động của đại dịch COVID-19… Trong đó, Quy hoạch đã xác định các nguyên tắc như 3 ranh giới và 4 khu vực.
Cụ thể, 3 ranh giới gồm: Ranh giới nghiêm ngặt bảo tồn đất rừng đặc dụng và đất rừng phòng hộ, đất trồng lúa, hồ ao, di tích lịch sử; ranh giới hạn chế phát triển như diện tích rừng tự nhiên, hành lang bảo vệ nguồn nước, đập ngập nước; ranh giới khuyến khích phát triển để chuyển đổi mục đích sử dụng cho phát triển kinh tế - xã hội, huy động nguồn lực theo cơ chế thị trường. 4 khu vực gồm: khu vực bảo tồn, bảo vệ nghiêm ngặt; khu vực ổn định, hạn chế chuyển đổi sử dụng mục đích sử dụng; khu vực cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất nhưng có điều kiện, có kiểm soát; khu vực được phép chuyển đổi sử dụng đất.
Tuy nhiên, Chủ tịch Quốc hội cũng nhất trí với đề xuất của nhiều đại biểu Quốc hội về việc Chính phủ cần báo cáo thêm, giải trình rõ hơn các nội dung đã được báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế đặt ra. Đơn cử như tình trạng quy hoạch giai đoạn vừa qua được xây dựng chậm trong khi quy hoạch đất đai phải đi trước một bước, làm cơ sở cho các quy hoạch phát triển khác. Cơ sở dữ liệu về đất đai, vừa là tồn tại hiện nay vừa là giải pháp tổ chức thực hiện hiệu quả quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong giai đoạn tới cho nên phải xây dựng được cơ sở dữ liệu về đất đai, phải tập trung cả về nguồn lực và công nghệ để hoàn thành việc điều tra, đo vẽ, lập hồ sơ địa chính và cập nhật vào cơ sở dữ liệu đất đai.
Liên quan đến quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trồng lúa, Chủ tịch Quốc hội cho biết đây là vấn đề lớn, chủ trương của Nhà nước là giữ ổn định ở mức 3,5 triệu ha. Bản Quy hoạch đề ra chỉ tiêu 3,568 triệu ha, cao hơn 68 nghìn ha so với mục tiêu và nguyên tắc đề ra.
Trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng và chuyển đổi mục đích sử dụng đất vừa có nguyên tắc phải chuyển đổi trở lại diện tích đất trồng lúa nhưng đồng thời cũng vừa phải linh hoạt, dựa vào điều kiện, đặc điểm của từng vùng, địa chất từng nơi. Ví dụ, đối với vùng Tây Nam Bộ thì phải phân loại, quy hoạch sử dụng đất trên cơ sở gắn với tài nguyên nước, đất ở vùng nước mặn, đất ở vùng nước lợ và đất ở vùng nước ngọt, như vậy, đất vùng nước ngọt thì trồng lúa, vùng nước mặn thì chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản, nước lợ thì có thể một vụ tôm, một vụ lúa.
Đặc biệt, việc chuyển đổi diện tích đất “bờ xôi ruộng mật”, đất hai vụ lúa thì phải hết sức hạn chế việc chuyển đổi mục đích sử dụng, phải kiểm soát rất nghiêm ngặt. Các nước phát triển cũng rất quan tâm đến việc giữ loại đất này.
Về đất khu công nghiệp, Quy hoạch đề xuất gia tăng khá lớn so với quy hoạch trong giai đoạn vừa qua, khoảng 120 nghìn ha. Trong khi đó, quy hoạch hiện hành mới chỉ thực hiện được 47%.
Về dư địa dành cho đất công nghiệp thời gian tới, theo Chủ tịch Quốc hội là cần thiết để đáp ứng yêu cầu phát triển lâu dài vì đây là đất phục vụ hạ tầng cho sản xuất, góp phần quan trọng tạo công ăn việc làm, tăng sản lượng công nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động, ngân sách nhà nước, tăng trưởng GDP…
“Tuy nhiên, cũng phải rà soát rất kỹ lưỡng, tránh tình trạng hợp thức hóa việc điều chỉnh quy hoạch. Chính phủ cần có báo cáo bổ sung về nội dung này”. Lưu ý vấn đề này, Chủ tịch Quốc hội cũng nêu thực tế hiện nay có tình trạng một số khu công nghiệp tỷ lệ lấp đầy chưa đạt 70% nên theo quy định thì không được mở khu công nghiệp mới. Chính sách này có mặt tích cực để kêu gọi đầu tư nhưng cũng có yếu tố cứng nhắc, lẽ ra với những khu công nghiệp không hiệu quả thì phải tính toán việc chuyển đổi để mở ra các khu mới hiệu quả hơn.
Chủ tịch Quốc hội lưu ý, số liệu trên thực tế và số liệu trong Quy hoạch cần tiếp tục rà soát, còn có độ “vênh” nhau do cơ sở dữ liệu đất đai hiện nay chưa hoàn thiện.
Bên cạnh đó, do tầm nhìn Quy hoạch rất dài nên theo Chủ tịch Quốc hội, Chính phủ cần định kỳ rà soát số liệu và nếu cần thiết có thể trình Quốc hội điều chỉnh Quy hoạch, không phải Quốc hội thông qua một lần là “đóng đinh” vào mà có thể điều chỉnh nhằm đáp ứng các yêu cầu phát triển mới, tư duy mới trong các giai đoạn phát triển tới đây.
Về giải pháp thể chế, Chủ tịch Quốc hội cho rằng lần này phải nhấn mạnh yêu cầu nghiên cứu, tổng kết, sửa đổi toàn diện Luật Đất đai và tập trung xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai giống như cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư hiện nay. Ngành tài nguyên phải số hóa mạnh mẽ hơn nữa. Thể chế pháp luật về đất đai và cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai là hai vấn đề quan trọng nhất. Nghị quyết của Quốc hội cũng cần nêu các vấn đề này.
Về tái cơ cấu nền kinh tế, Chủ tịch Quốc hội cho biết nếu năm 2020 không bị tác động của dịch COVID-19 thì các chỉ tiêu, mục tiêu của kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế trong giai đoạn 2016-2020 đều đạt mục tiêu đề ra. Kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 nặng nề hơn nhiều vì phải gắn với kế hoạch tổng thể về phục hồi kinh tế sau đại dịch COVID-19.
Nhấn mạnh điều này, Chủ tịch Quốc hội nêu rõ trong bất kỳ trường hợp nào chúng ta cũng phải giữ cho được ổn định kinh tế vĩ mô, sử dụng gói chính sách tài khóa và tiền tệ đủ mạnh với quy mô đủ lớn và thời gian thích hợp để tập trung cho phục hồi, phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề tồn tại hiện nay của nền kinh tế, nhất là áp lực về nợ xấu gia tăng do tác động của đại dịch COVID-19 hay những thể chế cần phải tiếp tục hoàn thiện để thúc đẩy thực hiện 3 đột phá chiến lược, các trọng tâm tái cơ cấu nền kinh tế.
Cùng với đó, theo Chủ tịch Quốc hội phải tận dụng mạnh mẽ các cơ hội của cách mạng công nghệ 4.0, tập trung cho số hóa, kinh tế số, xã hội số, đổi mới sáng tạo, các mô hình kinh tế mới, kinh tế xanh, kinh tế ban đêm, kinh tế chia sẻ… Đó là những trọng tâm cần tập trung trong giai đoạn tới. Đây cũng là những lĩnh vực chúng ta cũng có dư địa để phát triển, vừa hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực của dịch bệnh COVID-19 vừa tận dụng cơ hội để cải cách mạnh mẽ hơn, nhất là trong lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ số, cách mạng công nghiệp lần thứ 4.