Cũng theo cáo trạng, cựu Giám đốc CDC Hà Nội chỉ đạo cán bộ cấp dưới là các bị cáo Thanh, Dung, Quỳnh hoàn tất hồ sơ chỉ định thầu, ấn định Công ty MST là đơn vị trúng thầu. Để hợp thức hóa việc lựa chọn nhà thầu với giá được ấn định từ trước, CDC Hà Nội thuê Công ty Nhân Thành lập khống chứng thư thẩm định giá và hoàn thiện các thủ tục chỉ định thầu.
Khai nhận tại tòa, bị cáo Cảm cho biết, khi thực hiện gói thầu số 15 có hệ thống máy Realtime PCR tự động, còn gọi là máy xét nghiệm Covid-19 giá 7 tỉ đồng; máy tách chiết DNA/RNA tự động giá 1,2 tỉ đồng; 2 tủ lạnh âm và 1 tủ mát giá 1,34 tỉ đồng, CDC Hà Nội đã đảm nhận vai trò chủ đầu tư theo hình thức chỉ định thầu thông thường.
Trong chỉ định thầu, có các hình thức rút gọn và thông thường. Dù tình hình dịch bệnh phức tạp, tính chất cấp bách nhưng CDC Hà Nội vẫn chọn chỉ định thầu thông thường để lựa chọn được nhà thầu, thiết bị đảm bảo chất lượng nhất có thể. Dù vậy, bị cáo Cảm cũng thừa nhận đã làm hồ sơ gói thầu 15 không đúng nên xin chịu trách nhiệm toàn bộ về quy trình rút ngắn chỉ định thầu.
Bị cáo Cảm cũng cho biết được nhiều người giới thiệu nên biết đến bị cáo Tuyền. Khi gặp nhau, bị cáo Cảm được Tuyền báo giá máy như trên, thống nhất giao cho bị cáo Nhất.
Cáo trạng nêu, bị cáo Nhất đã bàn với bị cáo Vinh, Giám đốc Công ty MST về việc tham gia bán máy do Công ty Phương Đông cung cấp cho CDC Hà Nội. Sau đó, các bị cáo mua bán lòng vòng nhằm đẩy giá sản phẩm.
Cụ thể, giá máy do Công ty Phương Đông nhập khẩu, cung ứng với giá 2,3 tỉ đồng được bán cho Công ty Hưng Long, do vợ của bị cáo Vinh làm giám đốc với giá 3,7 tỉ đồng. Bị cáo Vinh nhờ giám đốc công ty khác ký hợp đồng mua lại của Công ty Hưng Long với giá 4,6 tỉ đồng rồi bán cho Công ty MST của Vinh giá 6,6 tỉ đồng. Cuối cùng, Công ty MST bán máy xét nghiệm cho CDC Hà Nội với giá 7 tỉ đồng.