Bạn đọc hoanghoatranxxx@gmail.com hỏi:
"Bác gái tôi (SN 1957) có ở chung với một người đàn ông SN 1958 như vợ chồng nhưng không có giấy đăng ký kết hôn (do ông này chưa ly hôn với vợ cũ) từ năm 1992 đến nay.
Giữa 2 người có một cô con gái, hiện bác gái có căn nhà và mảnh vườn do mẹ bác gái để lại. Vậy giữa 2 người chưa đăng ký kết hôn nhưng đã có con thì căn nhà và mảnh vườn mẹ bác gái để lại có được gọi là tài sản chung của bác gái và người đàn ông kia không?"

Tình huống này theo Luật sư Diệp Năng Bình - Trưởng Văn phòng Luật sư Tinh Thông luật - hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về hôn nhân thực tế.
Tuy nhiên, theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao thì hôn nhân thực tế phải đáp ứng được cả hai điều kiện về hình thức và nội dung.
Về hình thức: Hai bên chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03 tháng 01 năm 1987 mà không đăng ký kết hôn.
Về nội dung: Hai bên nam, nữ phải tuân thủ đầy đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân gia đình năm 1960 (trừ những trường hợp cán bộ miền nam tập kết ra Bắc trước giải phóng theo thông tư số 60 ngày 22.2.1978 của Tòa án nhân dân tối cao có hướng dẫn: người chồng và hai người vợ có thể thoả thuận chung sống ổn thỏa, tức là toà án không phải huỷ hôn nhân lần thứ hai.
Sẽ tiến hành huỷ hôn nhân trong trường hợp có yêu cầu của một hoặc cả hai người vợ (giải quyết theo yêu cầu của vợ). Tại mục 3 nghị quyết 35/2000/QH10 quy định rõ Việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật này được thực hiện như sau:
Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 1 năm 1987,ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì đượcTòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;
b)Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 1 năm 1987 đến ngày 01 tháng 1 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01 tháng 1 năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết. Từ sau ngày 01 tháng 1 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng;
c)Kể từ ngày 01 tháng 1 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng nếu có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Tòa án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
“Dựa vào quy định trên thì bác gái bạn chung sống từ năm 1992 và đến nay vẫn chưa đăng kí kết hôn thì pháp luật không công nhận là vợ chồng. Vì vậy, nếu bác gái bạn bây giờ mới tiến hành đăng kí kết hôn thì pháp luật công nhận là vợ chồng kể từ thời điểm đăng kí” - Luật sư Diệp Năng Bình cho biết.

Căn cứ theo điều 43, Luật hôn nhân và gia đình 2014, quy định về tài sản riêng như sau:
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này.
Bên cạnh đó, căn cứ theo Nghị định 126/2014/NĐ-CP, tại Điều 11 thì Tài sản riêng khác của vợ, chồng theo quy định của pháp luật bao gồm:
1. Quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ.
2. Tài sản mà vợ, chồng xác lập quyền sở hữu riêng theo bản án, quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác.
3. Khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền với nhân thân của vợ, chồng.
“Như vậy đến thời điểm này bác gái bạn vẫn chưa kết hôn và những tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân ( giả sử đã kết hôn ) thì vẫn thuộc là tài sản riêng của bác gái bạn” - Luật sư Diệp Năng Bình cho biết.