Chưa thể nghe được lời “buộc” và “ cởi” của ai và cũng chưa trả lời được câu hỏi nào trong hàng chục câu hỏi của Viện Kiểm sát, anh ta đã mê man ở phòng cấp cứu.
Anh ta ngất ngay sau khi xe dừng ở trước cổng viện quân y. Người ta khiêng xác người chết và người bị thương xuống (nửa đêm thì người bị thương cũng không qua được) không ai để ý đến sự có mặt của anh trên xe. Mười lăm phút sau xe con của Viện kiểm sát đỗ xịch ngay cạnh xe tải, người ta mới tìm kiếm nhân vật nguy hiểm, kẻ giết người, lúc anh ta đã “chết cứng” trên ghế lái. Một tuần sau anh ta vẫn trong tình trạng hôn mê. Lần đầu tiên bị phục kích bất ngờ và những người chết, người bị thương nằm trong xe, anh ta khiếp quá chưa thể hoàn hồn? Các bác sĩ quân y cho biết không có hiện tượng đứt mạch máu não, nhưng có dấu hiệu của bệnh tật sốt rét tái phát... Cũng chỉ trong khoảng thời gian anh ta hôn mê, Viện kiểm sát mặt trận đã phái nhân viên của họ về quê tìm hiểu lai lịch của anh ta. Những số liệu đầu tiên được xác minh chính xác có chữ ký đóng dấu của các cơ quan an ninh và chính quyền địa phương lại hết sức trái ngược nhau. “Hắn là đại đội trưởng ác ôn có rất nhiều nợ máu với cách mạng nhất là khoảng thời gian từ năm 1967 đến năm 1973”. “Hắn là đại đội trưởng, nhưng hầu như lần nào xáp mặt quân ta hắn cũng bỏ chạy. Đầu năm 1973 hắn trốn khỏi lính và đưa vợ cùng con trốn trong một bản người dân tộc (chưa xác định rõ nguyên nhân của hành động này)”. Nhân viên Viện kiểm sát nghi vấn: “Một: có thể là sự bố trí của địch nhằm một mục đích phá hoại lâu dài. Hai: do chiến thắng liên tiếp của ta, hắn biết rõ sự thất bại không thể tránh khỏi đành tính kế chuồn trước để thoát tội”.
Hắn chưa thể biết bản án đang lớn dần lên như trái núi khổng lồ đè bẹp thân phận hắn. Trong cơn hoảng hốt của hắn, cái ấn tượng làm hắn kinh hoàng là hôm ra đi không hiểu sao hắn lại gở mồm nói với vợ và tám đứa con đều lít nhít như một bầy gà cùng lứa ấp: “Má tụi nhỏ gắng nuôi các con đừng trông chờ tôi nghe”. Chỉ định dặn má con nó đừng sốt ruột, run rủi sao hắn lại nói điều gở như một điềm áo trước tai họa sẽ xảy ra.
Nhà báo được mời làm nhân chứng cho vụ án này. Không chỉ là người hiểu rõ gia đình đại tá, anh còn bỏ ra hàng tháng tìm hiểu lai lịch người lái xe nguyên là đại đội trưởng lính ngụy. Có nghĩa là anh là một nhân chứng biết nhiều chi tiết nhất về cuộc đời cả hai bên. Tuy nhiên, anh từ chối chưa trả lời những yêu cầu của cơ quan luật pháp. Cái khiến anh chưa thể nói điều gì lại là một chi tiết rất nhỏ. “Ông nhà báo có đi không? Tôi chạy đây”. Mấu chốt tội lỗi của người lái xe là ở đây. Còn anh, lúc xe bắt đầu rời khỏi trạm ba-rie cuối cùng của sư đoàn anh tựa vào thành xe sau buồng lái, quay mặt lại. Một tích tắc anh thấy đồng chí thiếu úy quân pháp khóa tay hai chiến sĩ xong, đứng sau lưng họ nhét chiếc chìa khóa số 8 vào túi quần bên phải. Lúc đồng chí thiếu úy nằm xuống, nếu không sợ một viên đạn ở đâu đó, một toán phục kích khác ở đâu đó, anh có thể chạy lại bên xe móc túi lấy chiếc chìa khóa. Nói thật ra, anh có nghĩ đến, nhưng chân tay run quá, cả ruột gan cũng run, anh đành phải bảo mình: Không, tôi không biết chìa khóa ở đâu. Tại sao anh không thể dùng tiểu liên yêu cầu lái xe dừng lại? Tại sao anh không dùng súng bắn dứt khóa để cứu người sống? Đấy là những câu hỏi người ta có thể đặt ra. Tất nhiên, hoàn toàn có thể làm được, nếu lúc ấy tôi không hoảng hốt cầu mong chiếc xe nhanh chóng vượt qua tám kilô mét đường rừng vắng vẻ. Tôi có tìm kiếm mà không thấy súng đâu. Người lái đã để súng xuống dưới, đặt họ lên trên, anh ta lại đang cuống quýt cho xe chạy. Không làm cách nào được, tôi đã phải vác người chết để người sống cùng chạy. Tôi bị ngã lia lịa trong khi xe đã nổ máy. Nghĩ đến bài báo phải gửi gấp về nước mà có ở lại tôi cũng không thể làm được gì, tôi đành phải theo xe để còn kịp báo cáo với mặt trận, may ra... Bằng ấy lý do tự bào chữa cho mình, nhà báo đủ tư cách để nhận lấy sự cảm động trân trọng. Người ta mừng cho anh thoát chết và tha thiết mời anh làm nhân chứng tin cậy. Dù anh chưa nhận làm nhân chứng ở phiên tòa, song người ta có thể tin hoàn toàn những chi tiết anh tường thuật.
Vào khoảng bốn giờ chiều hoặc hơn gì đó, xe đến cách Xa Phôn chừng mười ki lô mét liền tăng tốc độ bổ ngang bổ ngửa rầm rầm trên các “ổ trâu” - chữ của nhà báo - chứ không gọi là “ổ gà” được nữa. Biết lái xe mất bình tĩnh trước đoạn đường nguy hiểm, thiếu úy quân pháp cúi rạp người quát vào buồng lái: Bình tĩnh. Không có gì đâu. Chúng tôi cảnh giới. Xe vẫn “nhảy” và “bay” được khoảng một ki lô mét, ở phía trái đường, từ trong quán hàng có một người đàn bà chạy lao ra kêu: “Pốt, Pốt” rồi lao qua đường vào rừng cây. Chưa ai kịp hiểu điều gì, bỗng hai phát B41 đã phụt trước mũi xe, cùng lúc với những băng AK nổ rất đanh chụp cả vào ca bin và thùng xe. Đồng chí thiếu úy trúng đạn chết ngay, còn chiến sĩ vệ binh kịp rê hết hai băng AK mới trúng đạn ngã xuống. Tôi nằm ở sàn xe vội vàng bật dậy băng cho đồng chí ấy. Người lái xe nhảy lên thùng, đặt đồng chí thiếu úy nằm ngay ngắn và cùng tôi đưa chiến sĩ vệ binh xuống ca bin. Sau đó tôi và lái xe nhảy xuống nằm ép mình ở gầm xe chỗ bánh phía sau. Biết đích xác bọn địch đã chạy vào rừng, người lái nhảy lên xe hí húi chữa cái gì đó. Tôi nghe tiếng kêu tên mình cách chừng năm chục mét ở phía phải. Lái xe có nghe tiếng kêu ấy không? Không rõ. Anh có gọi lái xe lại cùng mình cứu hai người, tất nhiên chỉ còn một người sống? Không! Tại sao anh ta lại bảo “ông nhà báo ở lại, tôi chạy đây”. Chắc anh ta tưởng tôi chạy đi nấp. Anh ta có kiểm quân số trước khi xe chạy! Hình như anh ta không để ý đến hai chiến sĩ phạm pháp. Nhà báo tránh được sự rắc rối cho mình mà cũng không có ý buộc tội cho lái xe. Ngay đêm đó, đại tá Thủy đo từ chỗ xe dừng đến gốc cây thốt nốt, rồi bảo anh như người đi nhận phần đã được chia. Đường thẳng 78 mét, cứ gọi hẳn là tám chục mét đi. Đáng lẽ anh cũng hỏi nhà báo như quan tòa hỏi những câu “tại sao?”. Tại sao lái xe không trông thấy một tốp người cứu nhau chỗ gốc cây trên một khoảng cách ngắn và trống trải đó. Tại sao anh ta không nghe thấy tiếng kêu cứu giữa im ắng như tờ. Nhưng đại tá chỉ lặng lẽ suốt đêm lần mò đến những đơn vị đã nhận chỉ thị của tư lệnh đi tìm cứu con ông. Từ mười sáu đến hai mười giờ, tức là từ khi xe bị phục kích đến lúc đại tá có mặt ở khu vực ấy không có dấu hiệu gì bọn Pôn Pốt trở lại. Về phía ta, lúc chập tối có hai chiếc xe tải chạy qua không dừng lại. Tám giờ mười phút cũng có một đoàn xe mười hai chiếc kéo pháo đi qua an toàn. Chín giờ mười phút đơn vị công binh đến san lấp hai hố sâu ở mặt đường, cách nơi xe bị phục kích một kilômét. Chín giờ ba mươi đại đội trinh sát đầu tiên nhận lệnh mặt trận đến xem xét quanh vùng xe và tìm vết tích ở chỗ ba cây thốt nốt. Ngoài những vết máu dính vào gốc cây, không còn dấu vết gì khác. Tất cả những đơn vị đến sau cũng không biết gì hơn. Một tuần sau các đơn vị “địa bàn” kiểm tra hết vùng dân cư quanh dấy cũng không ai biết gì. Duy có một người con gái khá xinh hay ra mặt đường, nhưng người ta bảo cô ta điên, nên không ai hỏi, hoặc có hỏi, cô ta cũng chỉ mỉm cười lắc đầu. Chỉ còn lại hai khả năng: Một: người sống tự gỡ mình ra, vác bạn chôn ở chỗ nào đó, rồi chạy trốn cả ta lẫn địch. Hai: chính kẻ địch đã đến và cởi đưa cả hai đi. Khả năng này nhiều hơn. Không thể như thế. Đại tá phản đối kết luận ấy, nhưng hai mắt ông nhắm nghiền lại. Không thể công nhận, nhưng ông cũng không thể rời khỏi cái khả năng làm ông run sợ ấy. Bao nhiêu năm nay ông căm giận, phẫn nộ và khinh bỉ cái kết cục đen tối như thế, bây giờ nó lại rơi vào chính đứa con duy nhất của ông? Nếu vậy, nó bắt đầu từ đâu? Từ khi lên chốt giữ ở cao điểm, không chịu được gian khổ, hay đã ngấm ngầm hư hỏng từ khi còn ở nhà, khi ông kiên quyết tìm mọi cách bứt khỏi mối tình mù quáng của nó. Hay là nó ngấm ngầm từ bao giờ.
Còn tiếp