 |
Ông Phụng (bìa phải) trên đồng ruộng thử nghiệm giống lúa mới của Trung tâm NCTN ĐTM - Ảnh: D.T.H. |
Dọc theo quốc lộ 62 vô Tân Thạnh, Mộc Hóa, Vĩnh Hưng (Long An) vẫn còn sót lại những vạt đất vàng quạch vì phèn từ những năm 1990.
Lão nông Tô Trung Tước ở xã Thái Bình Trung (huyện Vĩnh Hưng) bốc một nắm đất lên vo nhuyễn rồi nói: “Hồi tụi tui mới vô đất ở đây toàn như vầy, chẳng trồng trọt gì được, phèn quá nặng”.
Vứt nắm đất, ông cười khà khà chỉ tay vào đám ruộng vụ lúa hè - thu, trước mắt chúng tôi là cánh đồng bát ngát chạy xa tít tắp giống như tấm thảm vàng khổng lồ... “Hồi đó ruộng đâu được như vầy, nước phèn chua lét hổng cây gì sống nổi trừ cỏ năn. Vậy mà ông Phụng chỉ tụi tui có một “chiêu”, từ đó về sau phèn dạt ra hết”.
Cái rãnh nước
Ông Phụng, đó là tiến sĩ Mai Thành Phụng, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu thực nghiệm nông nghiệp Đồng Tháp Mười. Từ những năm 1980, các chuyên gia Hà Lan đã đến Đồng Tháp Mười để nghiên cứu về việc cải tạo đất phèn.
Nhưng rồi họ phải lắc đầu bỏ đi với câu kết luận: “Đất phèn là loại đất ma quỉ. Thôi, hãy để nó ngủ yên, đừng đánh thức dậy vì chẳng những không được lợi lộc gì mà con người còn bị nó quậy phá”. Đến đầu những năm 1990, không ít đơn vị kinh tế đưa quân tiến công vào khai phá Đồng Tháp Mười, nhưng phần lớn đều gặp thất bại vì chưa hiểu nhiều về đất phèn. Có lẽ đất phèn sẽ tiếp tục “ngủ yên” nếu...
Ông Tư Tước lội sâu vô giữa ruộng, vạch lúa cho chúng tôi coi cái “chiêu” của ông Phụng. Đó là một rãnh nước chạy giữa đám ruộng. Ông Tước gật gù: “ừ, chỉ đơn giản đánh cái rãnh nước thôi mà nó làm thay đổi cuộc đời của hàng ngàn nông dân Đồng Tháp Mười này đó”.
Thật ra để đúc kết được cái rãnh nước thoát phèn, ông Phụng đã “rút ruột” hết kho kiến thức trong và ngoài nước về đất phèn, cả của những ông thầy tầm cỡ quốc tế như Hà Lan, Bỉ. Miệt mài nghiên cứu, cuối cùng ông tìm ra điều tưởng rất dễ thấy: nước lũ trên đất phèn không đứng yên. Khi nó hiền hòa như bà tiên, lúc dữ dội như bà chằn. Vậy tại sao ta không “né” nó khi dữ dội, “quản trị” nó khi hiền hòa? Ông bắt đầu nghĩ ra cách “hốt toa thuốc” né lũ ém phèn: vừa ém phèn ở tầng sâu, vừa rửa phèn ở tầng mặt.
Vào đầu mùa khô, khi mặt đất vừa ráo thì ông cho cày đất lên. Trước đây bà con thường nghĩ cày sâu cuốc bẫm là trúng mùa, nay ông điều chỉnh lại chỉ cày cạn trên lớp đất mặt chừng 10 - 15cm là đủ, tránh lật lớp đất phèn ở dưới lên nhằm “ém” phèn ở tầng sâu, rồi ông cho đào kênh và đắp bờ hoàn chỉnh.
Trong mỗi ô ruộng cũng đào thêm các con mương thoát phèn giáp vòng để việc rỏ phèn xuống mương được nhanh và thuận lợi. Khi lũ về, lợi dụng nước nhiều, ông cho lũ cuốn thoải mái mọi thứ phèn độc hại ra đi. Khi lũ rút chỉ còn lại lớp phù sa chừa lại trên mặt ruộng. Ông Tư Tước nói: “Ông Phụng nghiên cứu đất trời bao la vậy mà “kết” lại có một chỗ: cái rãnh nước. Chỉ bấy nhiêu đó mà xua được bao nhiêu phèn tích tụ cả ngàn năm nay. Thiệt dễ nhớ dễ làm hết sức”.
Năm 1994, ông Phụng ra Hà Nội bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ về “kỹ thuật khai hoang trồng lúa trên đất phèn nặng”, và phổ biến cho nông dân áp dụng từ đó đến nay.
 |
Tiến sĩ Mai Thanh Phụng |
Lúa ông Phụng
Nông dân Đồng Tháp Mười đến nay vẫn còn nhắc về sự kiện ông Phụng làm lúa giống kháng rầy hồi năm 1991. Vụ hè - thu năm đó lũ về khá lớn. Bỗng nhiên xuất hiện dịch rầy nâu đánh sập các trà lúa đang xanh tốt. Trong lúc các giống khác bị rầy ăn rụi thì ông phát hiện có một loại vẫn... sống nhăn đó là giống IR 50404.
Nó lại ngắn ngày, có thể trồng chạy lũ được. Thế là ông lập tức cho nhân giống và quyết định làm ngay trong vụ thu - đông. Có nhiều người phản đối: làm vụ hè - thu còn chạy lũ trối chết huống gì thu - đông, ngay mùa lũ chính vụ... Ông Phụng vẫn quyết tâm: “Không làm thì sang năm giống đâu để làm”. Thế là ông huy động toàn bộ nhân lực của trung tâm và bà con quanh vùng gần 200 người quai đê bảo vệ 100ha đất chống lũ, xuống giống IR 50404.
Trước cơn lũ hung hãn, ông và đồng sự ngày đêm bám đê, cứ nước lên cao lại bơm tát ra, sạt đê chỗ nào đắp lại chỗ nấy. Ròng rã gần ba tháng trời “ăn trong lũ, ngủ trong lũ mà đi đứng cũng trong lũ”, tới khi ai nấy cũng đều má hóp, râu tua tủa mọc thì cũng là lúc lúa chín. Khi lúa vô kho an toàn thì lũ cũng rút, nông dân bắt đầu xuống giống vụ đông - xuân.
Lúc này các tỉnh Long An, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang mới táo tác chạy lo kiếm lúa giống kháng rầy. Năm đó lượng giống cung cấp đủ cho 100.000ha vùng ĐBSCL. Và tới vụ đông - xuân 1995 đã có trên 1 triệu ha khắp ĐBSCL sử dụng giống “lúa ông Phụng”. Lúa chín vàng đồng. Từ đó, giống lúa IR 50404 được công nhận là giống quốc gia...
Không dừng lại, ông Phụng lại tiếp tục chọn được giống lúa ngắn ngày IR 59606 và tức khắc được nông dân sản xuất trên 90.000ha lúa xuất khẩu.
Bạn của nông dân
Sống với nông dân riết quen, ông Phụng có thói quen dậy sớm từ 4g sáng. Ông để ý thấy nông dân thức giờ đó chỉ có uống trà rồi thôi, phí biết bao thời gian. Ông nghĩ sao mình không truyền cho nông dân cái gì giờ này để nghe nhỉ?, rồi sực nhớ đài phát thanh có chương trình “Gia đình bác Tám” được lắm, sao mình không đưa chuyện làm ruộng vô? Vậy là sau đó mỗi ngày từ 4g30, bà con cứ mở đài (Tiếng nói nhân dân TP.HCM) là nghe giọng ông Phụng nói về thời tiết, cây lúa, mực nước, phân bón... đủ thứ về ruộng. Ông Tư Tước nói: “Trước đây tui ghiền trà, bây giờ ghiền... thêm nghe ông Phụng nói”.
Ngày 24-9-2000, ngày ra đời một sự kiện trên truyền hình mà nông dân ĐBSCL còn nhớ như in tới bây giờ: chương trình “Nhịp cầu nhà nông”. Ngày đó ông Phụng là người đầu tiên đề xướng ra chương trình này và trực tiếp lên truyền hình trả lời kỹ thuật nông nghiệp cho nông dân. Năm đó cũng là năm hoàn thành cầu Mỹ Thuận. Bà con so sánh: cầu Mỹ Thuận nối liền nông dân với thị trường, còn “Nhịp cầu nhà nông” nối liền nông dân với nhà khoa học.
Giờ đây ông xuất hiện đều đặn trên các đài truyền hình Long An, TP.HCM, Cần Thơ, VTV trong các chuyên mục khuyến nông. Sắp tới đây, khoảng giữa tháng tám, sẽ có chương trình trả lời trực tiếp của ông Phụng trên sóng phát thanh của Đài TNND TP.HCM.
Ông nói: “Công trình khoa học mà để trong ngăn kéo cũng thành vô dụng. Phải đem nó xuống cho nông dân sử dụng. Cho nên phải nói ra rả hằng ngày, phải tiếp cận với nông dân hằng ngày qua báo, đài mới đem được kỹ thuật tới nông dân”.
Và chúng tôi lại thấy hình ảnh ông Phụng ngồi với nông dân hàng giờ ở trên ruộng, ngay trong văn phòng, hoặc ở bên vệ đường, để nông dân hỏi, ông giải đáp, mọi lúc mọi nơi...
DƯƠNG THẾ HÙNG