Cơ chế và tổ chức mới, nếu được thông qua sẽ tạo ra sự thay đổi đáng kể hoạt động tín dụng Nhà nước đang chiếm tỷ lệ quan trọng trong cơ cấu đầu tư phát triển hiện nay.
Giai đoạn trước năm 2000, Chính phủ đã có nhiều chính sách thông qua tín dụng Nhà nước, được thực hiện qua nhiều đầu mối là các ngân hàng thương mại Nhà nước và Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia thuộc Tổng cục Đầu tư phát triển trước đây.
Thời kỳ sau đó, cùng với việc thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển, chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và tín dụng xuất khẩu được tổ chức lại và giao về một đầu mối là Quỹ hỗ trợ phát triển thực hiện. Tổng mức tài chính cho vay ra đối với các mục tiêu kể trên hàng năm đạt trên 10.000 tỷ đồng.
Các chuyên gia tài chính nhận định rằng, dù thay đổi là tất yếu, nhưng để tránh xáo trộn lớn trong chính sách quan trọng này, trước mắt, Việt Nam cần tận dụng tối đa thời gian chuyển tiếp (nếu có) trong giai đoạn đầu tiên gia nhập WTO để hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam. Theo đó, cần xây dựng hai hệ thống chính sách phù hợp với đặc điểm tính chất của mỗi hoạt động, đó là tín dụng xuất khẩu và tín dụng đầu tư phát triển.
Bên cạnh đó, việc thực hiện chính sách không được tạo ra một kênh bao cấp mới từ Nhà nước cho doanh nghiệp; không ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng thương mại thông thường. Hình thức và mức độ hỗ trợ cũng sẽ phải phù hợp với những quy định của WTO và thông lệ thương mại quốc tế, đảm bảo tập trung vào một đầu mối là một tổ chức tài chính của Chính phủ.
Phạm vi áp dụng tín dụng Nhà nước
Quan điểm mà Bộ Tài chính đưa ra đến thời điểm này đối với hoạt động tín dụng thương mại, là tập trung cao nhất cho người bán trong nước xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ.
Trước hết là các doanh nghiệp đã ký kết được hợp đồng xuất khẩu những loại hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục ưu tiên khuyến khích xuất khẩu, phát huy lợi thế của Việt Nam. Danh mục này sẽ ban hành cho từng thời kỳ từ 2 đến 5 năm. Lãi suất cho vay sẽ ở mức không vi phạm các quy định về trợ cấp của WTO, đồng thời tuân thủ theo lãi suất thị trường và về nguyên tắc, phải phù hợp cho từng loại kỳ hạn vay và mức độ rủi ro.
Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước sẽ áp dụng cho ba hình thức là cho vay đầu tư trực tiếp các chủ dự án trong nước và dự án đầu tư ra nước ngoài, bảo lãnh tín dụng đầu tư (bảo lãnh cho chủ dự án đi vay các ngân hàng thương mại) và hỗ trợ sau đầu tư.
Như vậy, so với trước đây, hình thức tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có thay đổi là điều chỉnh hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư thành hỗ trợ sau đầu tư và chỉ giới hạn trong nhóm các dự án hạ tầng và nông nghiệp nông thôn; bỏ cho vay dự án theo Hiệp định Chính phủ, thay vào đó là cho vay các dự án của doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài theo quyết định của Chính phủ như xây dựng nhà máy thủy điện, trồng cao su,... (trước mắt là những nước trong khu vực như Lào, Campuchia,...) phục vụ trở lại cho yêu cầu phát triển kinh tế của Việt Nam và tìm kiếm lợi nhuận.
Nguyên tắc mới trong tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước sẽ được bổ sung là cho vay và bảo lãnh tín dụng những dự án đầu tư có khả năng thu hồi vốn trực tiếp thuộc một số lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn của Chính phủ trong từng thời kỳ.
Thành lập ngân hàng để tạo nguồn lực
Theo tính toán, các nguồn lực để thực thi các chính sách tín dụng nhà nước này sẽ gồm nguồn từ Quỹ hỗ trợ phát triển hiện nay, ngân sách Nhà nước cấp vốn điều lệ, nguồn vốn vay từ các quỹ tài chính của Chính phủ; phát hành trái phiếu và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh; vay vốn từ các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước.
Từ các nguồn lực này, hiện có 2 phương án tổ chức đang được xem xét. Phương án 1 là thành lập Ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam (VEXIM) có mức vốn 3.000 tỷ đồng, thực hiện chức năng tín dụng xuất khẩu (như vậy, Quỹ hỗ trợ phát triển tiếp tục thực hiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước).
Đây là ngân hàng đặc biệt của Chính phủ không nhận tiền gửi từ dân cư, có tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0% (không phần trăm), không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, được miễn thuế và các khoản phải nộp ngân sách Nhà nước.
Phương án 2 là chuyển đổi hệ thống Quỹ hỗ trợ phát triển hiện nay thành tổ chức tài chính vừa thực hiện chức năng hỗ trợ tín dụng các dự án đầu tư trong nước (như tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước như hiện nay) vừa thực hiện chức năng hỗ trợ tín dụng xuất khẩu (như chức năng ngân hàng VEXIM).
Tổ chức này có thể lấy tên là Ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam hoặc Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Địa vị pháp lý cũng tương tự phương án 1 nhưng vốn điều lệ lên tới 5.000 tỷ VND. Chức năng nhiệm vụ gồm: Huy động các nguồn vốn; cho vay, bảo lãnh tín dụng dự án đầu tư trong nước; cho vay người bán trong nước xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ; cho vay người mua nước ngoài mua hàng hoá dịch vụ của Việt Nam; bảo lãnh tín dụng cho người bán hàng Việt Nam; bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng cho các doanh nghiệp trong nước tham gia dự thầu hoặc thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hoá; hỗ trợ sau đầu tư; uỷ thác giải ngân, thu nợ các dự án viện trợ chính thức của Chính phủ Việt Nam được ký kết theo Hiệp định của Chính phủ; uỷ thác giải ngân, thu nợ các dự án đầu tư Chính phủ Việt Nam vay nước ngoài về cho vay lại; uỷ thác quản lý, cho vay và thu hồi nợ một số chương trình kinh tế của Chính phủ; cung cấp dịch vụ thanh toán trong và ngoài nước cho khách hàng.
Theo đánh giá, trong điều kiện thực tế hiện nay, việc lựa chọn phương án 2, thành lập Ngân hàng phát triển Việt Nam là hợp lý và hiệu quả hơn do tận dụng được bộ máy hiện có của Quỹ hỗ trợ phát triển, tiết kiệm chi phí quản lý, tiếp tục thực hiện được cả nhiệm vụ tín dụng xuất khẩu.
|